domain, domain name, premium domain name for sales

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

Bán nước chanh giúp thành phố thoát khủng hoảng



TTO - Câu chuyện về cậu bé Joshua Smith 9 tuổi bán nước chanh và bắp rang để giúp thành phố Detroit (thuộc bang Michigan, Mỹ) thoát khỏi khủng hoảng, đang thu hút sự quan tâm của dư luận.
Cậu bé Joshua Smith, 9 tuổi, bán nước chanh và bắp rang giúp thành phố thoát khủng hoảng - Ảnh: Nydailynews

69 USD và lá thư gửi thị trưởng thành phố
Joshua sinh ra và lớn lên tại thành phố Detroit. Gần đây, cậu cảm thấy thành phố của mình đang “xấu” dần đi vì nhiều con đường vương vãi rác, công viên gần nhà - nơi Joshua thường vui chơi với bạn bè - cỏ mọc cao quá đầu người mà không ai cắt tỉa, đài phun nước ngừng hoạt động từ lâu. Ngày nọ trên đường đi học piano, Joshua nghe thông tin về tình hình tài chính khó khăn của thành phố Detroit. Sau nhiều ngày suy nghĩ, cậu quyết định kinh doanh nước chanh và bắp rang kiếm tiền giúp thành phố thoát khủng hoảng.
Ba mẹ của Joshua luôn ủng hộ và rất tự hào về quyết định kinh doanh của cậu bé, nhưng họ cũng trăn trở vì để thoát khỏi khủng hoảng, thành phố cần ít nhất 100 triệu USD, còn quầy nước chỉ có thể kiếm được khoảng 100 USD.
Ngày 30-7, quầy nước chanh và bắp rang của Joshua khai trương ngay trước nhà cậu bé. Joshua tự niêm yết giá cho quầy hàng: 1 chai nước chanh giá 1 USD, 1 hộp bắp rang giá 2 USD.
Trong ngày đầu khai trương, Joshua thu được 69 USD. Cậu bé đã gửi toàn bộ số tiền đến thị trưởng thành phố kèm lá thư: “Kính gửi ngài thị trưởng, con gửi đến ngài số tiền này bởi vì con biết biết thành phố đang gặp khó khăn và con hi vọng có thể đóng góp 1.000 USD hoặc nhiều để chúng ta có thể cắt cỏ và sửa đài phun nước của công viên”.
Joshua (bìa trái) bán nước chanh và bắp rang - Ảnh: Windsorstar

3.000 USD và một tấm lòng
Joshua và mẹ đã tiếp thị quầy hàng bằng tờ quảng cáo: “Hãy mua nước chanh và bắp rang để giúp đỡ thành phố. Toàn bộ số tiền thu được sẽ được dùng để dọn rác và cắt cỏ tại công viên”. Mẹ Joshua còn tiếp thị quầy hàng trên Facebook và nhận được nhiều ủng hộ gần xa.
Chưa đầy hai tuần sau khi khai trương, quầy nước chanh của Johua thu về khoảng 3.000 USD, gấp ba lần so với mục tiêu ban đầu. Cậu bé lại gửi toàn bộ số tiền trên đến thị trưởng thành phố.
Giờ đây, nhiều người gọi cậu bé Joshua là “anh hùng”. Cuối tuần qua, ông Dave Bing - thị trưởng thành phố Detroit - đã cảm ơn cậu bé và cho biết sẽ dùng số tiền làm quỹ cho một trường học tại địa phương. Sắp tới, Hội đồng thành phố sẽ tìm nguồn hỗ trợ để sửa chữa lại công viên gần nhà của cậu bé.
QUỲNH THY tổng hợp

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

Việt Nam cần có nhiều vụ phá sản hơn


Kinh tế Việt Nam đang trải qua một giai đoạn đặc biệt khó khăn. Tại cuộc họp báo thường kỳ của Chính phủ đầu tháng 4 vừa qua, trong Quý 1 đã có hơn 2200 doanh nghiệp làm thủ tục giải thể, hơn 9700 doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động có thời hạn hoặc dừng nghĩa vụ thuế. Trong khi đó số thành lập mới là 15300 doanh nghiệp.
Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trước đây mỗi Năm Việt Nam có khoảng 5000 tới 7000 doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể, hoặc phá sản. Tới năm 2011, số doanh nghiệp rơi vào tình trạng này lên tới 10000 doanh nghiệp mỗi Quý.
Số lượng doanh nghiệp rơi vào tình trạng ngừng hoạt động nhiều như vậy nhưng số doanh nghiệp thực tế đệ đơn xin phá sản chỉ đếm trên đầu ngón tay. Số liệu từ Tòa Kinh tế TPHCM cho thấy cả năm 2011 chỉ thụ lý 11 vụ phá sản doanh nghiệp; trong khi chỉ hai tháng đầu năm 2012 Cục Thuế TPHCM công bố có đến trên 3.100 doanh nghiệp ngừng hoạt động.
Câu hỏi là tại sao lại có ít vụ phá sản như thế ở Việt Nam?
Được chia mất tự chịu
Đứng về góc độ kinh tế, hình thức doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, và sau này là cổ phần, cùng với luật về phá sản là một sáng tạo độc đáo của loài người. Nó tạo ra một sân chơi mới rộng lớn và an toàn để tất cả mọi người có thể tham gia làm giàu cho mình và cho xã hội mà không phải lo mất trắng.
Mỗi cá nhân khi bước chân vào thị trường lao động thường có hai lựa chọn – hoặc là đi làm cho người khác để hưởng lương, hoặc trở thành một doanh nhân. Người ta chỉ chọn trở thành doanh nhân khi họ cho rằng thu nhập kỳ vọng từ công việc này cao hơn. Thu nhập kỳ vọng này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố về thị trường, khả năng của doanh nhân về ý tưởng, sản phẩm, năng lực triển khai, tài chính…, và các chính sách của nhà nước.
Trong trường hợp một doanh nhân thành công, thì không chỉ có doanh nhân này được hưởng lợi. Nhà nước và xã hội được lợi thông qua thu thuế. Người lao động được hưởng lợi thông qua việc có công ăn việc làm. Người tiêu dùng được hưởng lợi vì có sự lựa chọn sản phẩm hoặc dịch vụ đa dạng hơn. Thế nhưng khi một doanh nhân thất bại, nếu không có hình thức trách nhiệm hữu hạn và luật về phá sản, thì toàn bộ rủi ro từ hoạt động kinh doanh sẽ rơi xuống đầu doanh nhân đó. Nói các khác, rủi ro thì hưởng trọn, mà lợi ích thì phải chia ra.
Trong những trường hợp như vậy, số lượng người dám “liều” làm kinh doanh sẽ ít hơn mức tối ưu cho xã hội. Trên thực tế, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thất bại sau một thời gian ngắn. Theo Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ Hoa Kỳ (SBA), hơn 50% các doanh nghiệp mới thành lập sẽ biến mất trong vòng 5 năm. Một nghiên cứu khác của tạp chí Inc. và Hiệp hội Hỗ trợ Doanh nghiệp Quốc gia (National Business Incubator Association) cho thấy hơn 80% doanh nghiệp sẽ thất bại trong vòng 5 năm kể từ ngày thành lập. Thống kê ở New Zealand cũng cho thấy 53% số doanh nghiệp mới thành lập sẽ thất bại trong vòng 3 năm.
Luật về phá sản trở thành một công cụ bảo hiểm cho các doanh nhân. Nó giới hạn mức độ rủi ro mà các doanh nhân này phải gánh chịu trong trường hợp hoạt động kinh doanh bị thất bại. Trong trường hợp thất bại, những gì một chủ doanh nghiệp mất chỉ bị giới hạn trong số tài sản mà doanh nhân này bỏ ra trong doanh nghiệp. Vì thế, sau khi doanh nghiệp phá sản, doanh nhân vẫn có thể bắt đầu một doanh nghiệp mới trong trường hợp họ muốn tiếp tục theo đuổi công việc kinh doanh và chấp nhận chịu đựng rủi ro.
Chính vì phát minh ra công cụ bảo hiểm này mà hoạt động kinh doanh khắp thế giới mới bùng nổ. Rất nhiều nghiên cứu định lượng đã chỉ ra vai trò của luật này trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế. Thí dụ nghiên cứu của David M. Primo (giáo sư Đại học Rochester) và William Scott Green (giáo sư đại học Miami) cho thấy khi luật về phá sản cởi mở hơn thì hoạt động tự doanh sẽ tăng lên.
Được phá sản và bắt đầu lại từ đầu là một quyền lợi của chủ doanh nghiệp. Trong trường hợp của Việt Nam, quyền này được pháp luật thừa nhận. Thế nhưng trên thực tế thì rất hiếm khi quyền này được thực hiện. Như đã dẫn ở trên, số liệu từ Tòa Kinh tế TPHCM cho thấy cả năm 2011 chỉ thụ lý 11 vụ phá sản doanh nghiệp; trong khi chỉ hai tháng đầu năm 2012 Cục Thuế TPHCM công bố có đến trên 3.100 doanh nghiệp ngừng hoạt động.
Tại sao không phá sản được?
Có 4 lý do chính dẫn đến việc không có nhiều doanh nghiệp sử dụng hình thức phá sản ngay cả khi doanh nghiệp của họ đã kiệt quệ và không còn khả năng hồi phục.
Thứ nhất, luật pháp coi những chủ doanh nghiệp phá sản như những tội nhân. Theo quy định của pháp luật hiện nay, chủ doanh nghiệp phá sản và những người quản lý doanh nghiệp đó sẽ bị tòa ra quyết định không được quyền thành lập cũng như cấm đảm nhiệm các chức vụ quản lý doanh nghiệp từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Điều này trên thực tế mâu thuẫn với tinh thần của luật phá sản. Nó làm hỏng mất dụng ý ban đầu của các nhà làm luật. World Bank, trong một báo cáo năm 2005 có tựa đề “Doing Business in 2006: Creating Jobs” có viết “các luật (quá khó khăn) làm ngăn cản việc sử dụng quyền được phá sản.Và chúng làm giảm tinh thần kinh doanh: các nghiên cứu ở Mỹ cho thấy các doanh nhân thường thử nhiều lần trước khi có được thành công. Trừng phạt chuyện lừa đảo là đúng, nhưng phá sản là chuyện khác. Một doanh nhân có thể không gặp may hoặc mắc sai lầm. Con nợ phải phá sản bản thân họ đã phải đối diện với gánh nặng tâm lý rồi. Tại sao còn phải trừng phạt họ về mặt pháp luật nữa?
Thứ hai là ngay cả khi doanh nghiệp đã nộp đơn xin phá sản, trình tự và quy trình xử lý các hồ sơ xin phá sản ở Việt Nam quá mất thời gian và rất khó thực hiện. Trong tuyệt đại đa số trường hợp quá trình này kéo dài hàng năm, thậm chí nhiều năm trời. Thị trường mua bán nợ không phát triển khiến việc xử lý các khỏan nợ (có thế chấp) khi doanh nghiệp phá sản trở nên rất khó khăn, đặc biệt là khi nó liên quan đến nhiều chủ nợ.

Thứ ba là trong trường hợp phá sản, câu chuyện phá sản của một doanh nghiệp là câu chuyện dân sự, nhưng ở Việt Nam lại rất dễ dẫn tới hình sự. Một khi hồ sơ xin phá sản được đệ trình, các cơ quan nhà nước và các chủ nợ có thể đi vào rà soát tất cả hồ sơ giấy tờ và chứng từ của doanh nghiệp. Với tình trạng quản trị doanh nghiệp theo kiểu Việt Nam, việc sai phạm là khá phổ biến. Nhiều trong số các sai phạm này có thể khép vào các tội hình sự như lừa đảo, chiếm đoạt tài sản... Điều này khiến các chủ doanh nghiệp lo sợ và vì thế không dám nộp hồ sơ xin phá sản.
Thứ tư là các thông lệ hiện hành cũng khiến cho việc phá sản trở nên khó khăn. Thí dụ, các chủ nợ của doanh nghiệp trong phần lớn trường hợp cũng không muốn con nợ tuyên bố phá sản. Các chủ nợ thường tìm cách thu hồi vốn cho vay thông qua việc gây sức ép đối với chủ doanh nghiệp thông qua kiện tụng, quan hệ xã hội, chính trị, thậm chí trong một số trường hợp kể cả thế giới ngầm. Ngay cả nhiều khi biết không có khả năng thu hồi vốn cho vay, thì việc con nợ chưa phá sản vẫn dễ ăn nói hơn vì các khoản cho vay này trên giấy tờ vẫn còn giá trị. Thực tế dễ thấy là các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong những năm vừa qua liên tục phải cho các con nợ, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển bất động sản, đảo nợ thay vì siết nợ để họ phải tuyên bố phá sản.
Các xác chết biết đi
Trên thực tế, việc không cho các doanh nghiệp đã hoàn toàn mất khả năng trả nợ phá sản là một việc hết sức nguy hiểm đối với nền kinh tế. Nó nguy hiểm ở nhiều góc độ:
Thứ nhất, đối với chủ doanh nghiệp và những người liên quan nó là việc kéo dài sự chịu đựng, thời gian, công sức, lo toan, nhiệt huyết vào một con đường mà họ biết là không còn lối thoát. Đây là một sự chịu đựng vô lý, hoàn toàn trái với tinh thần nhân đạo của luật phá sản. Và vì thế, nó cũng tạo ra sự phí phạm to lớn về nguồn lực và làm nản lòng những người muốn làm kinh doanh trong một môi trường rủi ro cao như ở Việt Nam.
Thứ hai, nó giam các nguồn lực nằm chết một chỗ thay vì hướng chúng vào các mục đích sử dụng có thể tạo giá trị gia tăng. Thí dụ, một doanh nghiệp sản xuất lâm vào tình trạng phá sản thì không còn khả năng sản xuất kinh doanh bình thường, và vì thế nguồn lực vật chất như thiết bị nhà xưởng của doanh nghiệp không được sử dụng tối ưu. Việc kéo dài sự tồn tại của doanh nghiệp này cũng đồng nghĩa với việc kéo dài tình trạng khai thác không hiệu quả các tài sản đó. Một doanh nghiệp bất động sản không còn vốn để xây tiếp dự án đang dở dang của họ sẽ khiến những người mua nhà phải chờ đợi vô lý, thời gian đưa vào sử dụng của dự án sẽ bị kéo dài vô hạn độ thay vì qua thủ tục phá sản, tài sản này được chuyển vào tay những chủ đầu tư có năng lực tài chính tốt hơn và có khả năng hoàn thành dự án sớm.
Thứ ba, nó kéo dài cơn mộng mị hoang đường của nhiều người, che dấu tình trạng thực sự của nền kinh tế, gây nên ảo tưởng là mọi chuyện vẫn ổn, bóp méo thông tin, và dẫn tới các khỏan đầu tư hoặc cho vay sai lầm. Câu chuyện này ở Việt Nam đặc biệt nguy hiểm, nhất là trong giai đoạn mà các nguồn lực đang cạn kiệt:
Rất nhiều doanh nghiệp trên thực tế không còn cách gì có thể khôi phục lại, nhưng vẫn được các ngân hàng bơm vốn và đảo nợ để kéo dài sự tồn tại. Đây là các khoản đầu tư sai lầm, gây phí phạm nguồn lực. Đến lượt nó, các khoản cho vay dưới chuẩn này lại tạo kéo lùi hệ thống ngân hàng, gây căng thẳng thanh khoản, đẩy nhiều ngân hàng vào tình trạng buộc phải có ứng cứu từ nhà nước. Khi nhà nước đứng ra cứu hệ thống ngân hàng, thì cũng là lúc nhà nước xã hội hóa tổn thất các khoản đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp và ngân hàng.
Nói cách khác, việc không cho phá sản tạo ra các xác chết biết đi (zombies) và các zombies này tiếp tục gây ra các thiệt hại cho cả xã hội trên nhiều mặt và bằng nhiều cách. Để có một nền kinh tế thị trường lành mạnh thì các nguồn lực trong nền kinh tế phải được liên tục vận động đến những nơi có khả năng sử dụng chúng hiệu quả nhất thay vì bị kẹt cứng ở các điểm không hiệu quả. Nói một cách hình tượng, các doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản cũng giống như các khối u phải được cắt bỏ càng nhanh càng tốt. Để càng lâu, các khối u này sẽ lan ngày càng rộng và hủy hoại cả cơ thể. Điều này đúng đối với nền kinh tế nói chung và cũng đúng với các chủ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nói riêng.
Nhiều người ở Việt Nam lo ngại rằng việc cho phá sản hàng loạt có thể tạo ra những đổ vỡ hệ thống. Điều này không phải là vô lý. Trên thực tế, ở rất nhiều nước, ngay cả Mỹ, có nhiều trường hợp được coi là “too big to fail” – tức là lớn quá không thể thất bại được. Trong trường hợp đó, các doanh nghiệp lớn này thường được chính phủ cứu. Thí dụ điển hình là trường hợp American Insurance Group (AIG) trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009. Các quyết định cứu trợ này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi và rất nhiều người, trong đó bao gồm cả các học giả nổi tiếng của Mỹ, lên tiếng phản đối các chương trình giải cứu này.
Thế nhưng câu chuyện ở Việt Nam hiện nay không phải là câu chuyện “too big to fail”. Không phải chỉ có các đại công ty được bảo vệ khỏi (hoặc không được phép) phá sản, mà ngay cả những công ty nhỏ và vừa cũng không được sử dụng quyền này trên thực tế. Trong khi các doanh nghiệp lớn thì được bơm tiền để cứu, các doanh nghiệp nhỏ hơn thì chủ doanh nghiệp nhiều khi phải chịu trách nhiệm gần như vô hạn – tức là phải bán tài sản cá nhân để giúp doanh nghiệp của mình trả nợ.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần phải sửa đổi lại luật phá sản doanh nghiệp sao cho họat động phá sản phải trở thành một hoạt động bình thường trong nền kinh tế. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể thực hiện được quyền phá sản của mình nhanh chóng và đơn giản. Các chủ doanh nghiệp không thành công trong một hoạt động kinh doanh nhất định cũng có thể nhanh chóng bắt đầu một hoạt động kinh doanh mới. Các chủ nợ cũng có cơ hội, và có thị trường, để định giá các khoản cho vay, và khi khách hàng phá sản, có thể nhanh chóng thu về phần tài sản còn lại và chuyển phần vốn còn lại này cho các khách hàng khác có khả năng kinh doanh tốt hơn vay.

Nguồn: 

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Thế giới sẽ chỉ còn 6 tập đoàn xe hơi



Sức ép giảm chi phí, tối đa lợi nhuận khiến các chuyên gia tiên đoán sẽ chỉ còn 6 tập đoàn sản xuất ôtô trên toàn cầu, trong khoảng 3 thập kỷ nữa.



Một mẫu xe Saturn, thương hiệu thuộc tập đoàn General Motors và đã bị khai tử từ 2009 do khủng hoảng. Người Mỹ cũng không còn cơ hội sở hữu Mercury, một thương hiệu của Ford. Ảnh: Saturn.

Theo phân tích của CNN, lợi ích không chia đều cho các hãng mà chảy về túi những "ông lớn" ở Bắc Mỹ, châu Âu, và châu Á, những người biết tận dụng quy mô tạo ra doanh số tối ưu. Các công ty này kỳ vọng mức tăng trưởng vượt bậc trong những năm tới. Nếu sử dụng sức mạnh khôn ngoan, họ sẽ trở thành hãng xe số 1.

CEO của liên minh Fiat-Chrysler, Sergio Marchionne nhìn thấy viễn cảnh của một cuộc chiến về cấu trúc giá đang ngày càng khốc liệt. Giải thích cho nguyên nhân sâu xa đằng sau việc thôn tính Chrysler vào năm 2009, theo quan điểm của Marchionne, các hãng xe cần đạt được doanh số 6 triệu xe mỗi năm nếu muốn thành công. Gần đây, ông tiết lộ thêm cần bán 10 triệu xe mỗi năm trên phạm vi toàn cầu để bước lên cấp độ mới về hiệu quả, giảm chi phí phát triển ở những khâu quan trọng.

Để đạt được mục tiêu Marchionne đưa ra, Fiat-Chrysler sẽ phải vượt 5 đối thủ đang dẫn trước. Đứng đầu là GM từng nắm ngôi vương của ngành trong hơn nửa thế kỷ. Renault/Nissan và Toyota trên đà phục hồi sau thảm họa thiên nhiên và những đợt triệu hồi đình đám. Hyundai lớn nhanh như thổi và một Volkswagen đầy tham vọng.

Ford hiện đứng sau Volkswagen và còn khoảng cách 1,2 triệu xe. Sự khác biệt thể hiện trong chính sách ở các giai đoạn phát triển mà mỗi hãng đang theo đuổi. Volkswagen sở hữu hàng loạt thương hiệu nổi tiếng, từ các dòng xe thương mại như Jetta và Passat đến siêu phẩm Bugatti. Ford từ bỏ một vài mục tiêu xa giống như Volvo, Jaguar-Land Rover, để hướng trọng tâm vào những chiếc xe con và xe tải chiến lược mang thương hiệu Ford. Kết quả tất yêu là việc thu hẹp quy mô.

Uy tín của các hãng xe sang như Mercedes hay BMW có thể bù đắp cho kích thước khiêm tốn của họ. BMW giàu có, nhưng quy mô chỉ bằng một phần tư GM. Một số công ty ở tầm trung như Peugeot, Honda, Suzuki, Mazda, Fuji và Subaru đang phải đối mặt với những bất lợi quan trọng về giá.

Quy mô chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Kích thước tạo ra sự phức tạp, ngăn cản sự hỗ trợ khi lâm vào tình huống phá sản, GM là một minh chứng hùng hồn cho vấn đề đó. Chìa khóa để thành công là thực thi hiệu quả các nguồn lực để thu lời từ doanh số. Sản lượng lớn giúp các nhà sản xuất phân tán chi phí đầu tư công nghệ, phát triển sản phẩm tương tự như một phép chia số học.

VW và Toyotalà những hãng khôn ngoan trong việc sử dụng lợi thế quy mô để đạt sự hiệu quả. Từ các phần tử cơ bản, VW có thể xây dựng được 3 triệu xe, nhiều hơn bất kỳ công ty nào trên thế giới. Toyotaxuất sắc đứng vị trí thứ 2 trong việc sử dụng chung khung sườn.

Tương tự, GM đang cố gắng kiểm soát tài chính. Đã có thông tin tiết lộ rằng hãng sẽ giảm một nửa chủng loại khung sườn, từ 30 năm 2010 xuống 14 vào năm 2018. Động thái này được kỳ vọng sẽ tiết kiệm 1 tỷ USD mỗi năm, hầu hết trong số chúng là những chi phí công nghệ. Nhưng đó chỉ là một con số rất nhỏ so với VW, hãng đang phát triển một khung sườn xe khách đơn giản được gọi MQB, nhằm củng cố vững chắc 40 mẫu xe của 4 thương hiệu: VW, Audi, Skoda, và Seat. Dự kiến dự án sẽ tiết kiệm 20% chi phí phát triển sản phẩm và linh kiện, 30% trong thời gian sản xuất hàng loạt.

Để lớn hơn, nhiều nhà sản xuất xe hơi đang tìm cơ hội bắt tay nhau. Renault-Nissan mở rộng quan hệ với Daimler để sản xuất động cơ cho Mercedes tại nhà máy sản xuất hệ thống động lực ở Tennessee. Opel của Đức và Peugeot từ Pháp liên kết để phát triển khung sườn chung. Trong khi đó, Giám đốc Fiat Sergio Marchionne ganh tị đứng ngoài quan sát. Nhiều người cho rằng, ông đang tìm kiếm đối tác thứ 3, thậm chí là thứ 4 cho liên minh Fiat - Chrysler.

Không gấp rút hay vội vàng chính là sự khác biệt của Ford, rất khó khăn để dòng họ Ford từ bỏ quyền kiểm soát công ty. Honda cũng chẳng dễ gì từ bỏ con đường đã chọn. Toyota cũng muốn phát triển quan hệ "hữu cơ", nhưng hiện tại họ đang thành công với việc mở rộng thương hiệu con Lexus và Prius.



Sản lượng xe của các hãng theo dự báo của HIS.

Sự tương tác trong quá trình vận động và nhiều yếu tố khác được phản ánh trong dự báo của HIS vào năm 2020. Thực tế, thứ hạng của các công ty có thể thay đổi, 5 công ty đứng đầu sẽ kéo dài thêm đường chạy. Theo HIS, VW không đạt mục tiêu 10 triệu xe, nhưng sẽ duy trì khoảng cách 1,3 đến 1,7 triệu xe với Ford. Toyota dẫn trước Honda 3,8 triệu xe trong năm 2011 và sẽ là 4,4 triệu vào năm 2020.

Cuộc chiến cạnh tranh tất yếu dẫn đến sát nhập. Các chuyên gia dự đoán, thế giới sẽ chỉ còn 6 hãng xe sau 30 năm nữa. Điều đó hiện chưa xảy ra bởi chính phủ các nước vẫn đang giúp các công ty hoạt động tốt. Nhưng khi logic kinh tế điều khiển theo một hướng khác thì liệu Pháp, Italy có cần tới 3 công ty sản xuất ôtô độc lập. Những xáo trộn diễn ra gần đây, đặc biệt là khó khăn của nền tài chính đang dần biến lời tiên đoán đó thành hiện thực.

Theo Bảo Sơn 
vnexpress


Giải phóng mặt bằng: Mỹ khác Việt - Ted Langphair


Trước khi xây dựng một khu chung cư hoặc khu thương mại lớn, công ty phát triển bất động sản phải mua tất cả số đất trên đó các tòa nhà này sẽ mọc lên. Thông thường những vụ mua bán đó diễn ra một cách âm thầm vì nếu tin tức lọt ra ngoài, các chủ đất có thể tăng giá.

Thỉnh thoảng cũng có những người nhất định không chịu bán lại nhà đất của họ với bất cứ giá nào. Phần đông những người này được giới trong nghề gọi là những “ông bà già cổ hủ”, hoặc những “cái cọc gai”, hoặc “những người tử thủ.” 

Họ là những người có quá nhiều kỷ niệm với căn nhà hoặc cửa hàng đang có đến độ không chịu nổi khi phải chia tay chúng. Họ bám chặt lấy chỗ của mình, nên người Mỹ có cụm từ “những căn nhà đinh” hoặc “ngoan cố như đã đóng đinh.”

Xin giới thiệu một ví dụ cổ điển:

Vào thập niên 1960, công ty giải trí Disney kín đáo mua lại 11 hecta đất tại giữa bang Florida để xây một khu giải trí lớn. Nhưng có hai gia đình nhất định không chịu bán lại những lô đất đầm lầy của họ. Công ty Disney phải vẽ lại một hệ thống kênh thoát nước vòng quanh các lô đất đó, và cả hai khu đất cá nhân sở hữu vẫn còn trụ và nằm lọt thỏm trong khu giải trí Disney cho đến bây giờ.

Và cách đây ít năm, một cư dân thủ đô Washington đã từ chối món tiền nhiều triệu để bán lại căn nhà hai tầng loại liền vách mà ông ta dùng làm văn phòng hành nghề kiến trúc. Công ty phát triển xây dựng phải dùng xe đào đất đào sâu xung quanh 3 mặt nhà của ông. 

Người chủ đất này nói khi nào tòa nhà xây lên quanh nhà ông, ông sẽ mở một tiệm bán bánh pizza. Nhiều người chế nhạo ông, bảo rằng ông phải bán cả trăm ngàn bánh pizza mới bằng khoản tiền mà người ta đã đề nghị và ông đã từ chối. Cuối cùng ông chẳng mở tiệm pizza, và năm ngoái ông đã rao bán căn nhà với giá không bằng phân nửa số tiền mà công ty xây dựng đã đề nghị. Không rõ ông đã tìm ra người mua chưa.

Ở Mỹ, người phát triển nhà đất có thể dùng biện pháp gì đối với những chủ nhà đất cứng đầu đó? Một vài người nhờ tới chính quyền địa phương, để họ xếp dự án của mình vào loại “tái phát triển đô thị.” Bằng cách đó, các giới chức được trao thẩm quyền, theo luật gọi là “vùng quan trọng”, thường áp dụng trong những trường hợp xây dựng những khu công ích như đường xá... buộc người sở hữu nhà đất phải bán và dọn đi chỗ khác.
Nhưng nếu người phát triển nhà đất không vận động được chính quyền tham gia, thì cách kiện cáo đôi lúc cũng làm người chủ nhà bỏ cuộc. Lý do là người phát triển nhà đất thường có nhiều tiền để trả luật sư hơn là những cá nhân sở hữu nhà đất.

Thêm một điều nữa, rất nhiều công ty phát triển nhà đất cũng đã học được một điều, là mang một bà cụ già nhỏ nhắn ra trước tòa án chẳng phải là một ý tưởng hay ho gì, vì bà cụ và căn nhà nhỏ bướng bỉnh của bà nằm giữa khu nhà chọc trời có thể làm thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn mủi lòng và cho bà cụ thắng kiện.

Những nghề đã bị xóa tên hay sắp bị xóa sổ - Ted Lanphair

Những tiến bộ của thời buổi ngày nay đã khiến nhiều nghề hoàn toàn hay sắp bị xóa sổ tại Hoa Kỳ. Nghề sửa máy chữ là một. Và nghề thư ký đánh máy nữa. 

Còn một nghề cũng sắp, nhưng chưa, bị lui vào dĩ vãng: đó là nghề xuất bản sách tham khảo.

Trên toàn nước Mỹ, các tủ sách ở mọi nơi thường được chất đầy các bộ bách khoa tự điển và những pho sách dày cộm về sử, địa, luật, khoa học và các bộ tự điển để tra cứu nguyên ngữ và cách dùng từ ngữ. 

Nhưng ngày nay hầu hết những bộ sách như thế đã nằm yên trên kệ hàng tháng, có khi hàng năm mà không được một bàn tay nào đụng tới. Những bộ sách này đã trở thành những vật dụng mang tính cách lịch sử, một phần để trang hoàng phòng làm việc mà thôi. 

Nhưng không phải là người sử dụng chúng biếng lười không muốn giở sách ra tham khảo, mà cũng không phải nội dung của chúng giảm bớt giá trị. Như quý vị có thể đoán biết, người ta có thể tiếp cận thông tin chứa đựng trong các bộ sách đó chỉ trong tích tắc tại hàng trăm, có khi cả hàng ngàn, địa chỉ trên mạng internet. 

Lấy ví dụ, nếu quí vị muốn tìm những chi tiết về các tảng ong, quí vị không bị gò bó tìm hiểu chỉ trong bộ bách khoa tự điển, có lẽ đã được soạn cách nay 20 năm. Trên mạng, bạn có thể tiếp cận với vô số những tảng ong qua phương tiện điện tử để đọc hay xem cho đến khi mãn nhãn. 

Ngày nay số bán những bộ bách khoa tự điển chuyên môn, đắt tiền đã giảm quá phân nửa so với 10 năm trước. Nhưng sự kiện này không làm cho các nhà xuất bản phải dẹp tiệm. Họ đang bù vào số thua lỗ của việc in ấn sách bằng cách bán quyền sử dụng sách điện tử trên mạng, để ai cần phải đăng ký trả tiền sử dụng dài hạn, như các thư viện, các trường đại học, bệnh viện, và các văn phòng luật trên khắp thế giới. Tự điển bách khoa trên mạng được cập nhật thường xuyên và có thể điều chỉnh cho dễ đọc chứ không như các ấn bản. 

Những nhà xuất bản, còn gọi là những nhà sáng tạo nội dung các bộ sách tham khảo, chẳng có mấy chọn lựa nếu như họ muốn tiếp tục tồn tại trên thương trường. Và ít ra thì họ cũng tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho những cơ sở như kho chứa sách, và đồng thời cứu được nhiều rừng cây khỏi bị đốn ngã để làm giấy in sách.



Nguồn: http://www.voanews.com/vietnamese/news/lifestyle/only-in-america-new-reference-sources-02-07-12-138907409.html

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Những lý luận về Thu nhập


Những lý luận về Thu nhập

Lợi ích biểu hiện qua Thu nhập, kích thích con người nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

  • Aristote Saint Thomas d’Aquin: phủ nhận lợi nhuận là mục đích của trao đổi nhưng sau đó Aquin thừa nhận lợi nhuận là hợp pháp.

  • Trường phái trọng thương:
    • Tiền tệ biểu hiện qua vàng, bạc là của cải.
    • Lợi nhuận được tích trữ qua trao đổi không ngang giá. Lợi nhuận làm tăng của cải.
    • Trong trao đổi có người được lợi thì có người sẽ bị thiệt. Vì vậy một quốc để giàu có cần phải xuất khẩu nhiều và thu về vàng bạc.

  • Francois Quesnay:
    • Lợi nhuận trong trao đổi chỉ là do tiết kiệm chi phí mà có, còn trong nông nghiệp thì nhờ đất đai tự nhiên mà khối lượng sản phẩm đầu ra được tăng lên (làm tăng của cải), đó mới là thịnh vượng.
    • Nhà tư bản cũng là người tự trả lương cho mình, nên nếu nhà tư bản có lợi nhuận nghĩa là thu nhập kiếm được nhiều hơn số lương cần phải trả cho bản thân họ. Vì vậy lợi nhuận có được chỉ là do vị thế độc quyền hay thuế quan bóp méo tạo ra (nền kinh tế không có cạnh tranh tự do).

  • William Petty:
    • Lương là khoản tiền để công nhân có thể đảm bảo cuộc sống tối thiểu về vật chất. Lương cao sẽ làm công nhân không muốn làm việc. Vì vậy cần phải hạ lương thấp.
    • Người có tiền để có thu nhập cần mua đất đai để có địa tô hay gửi ngân hàng để có lợi tức.

  • Adam Smith:
    • Lương
      • Xã hội có 3 giai cấp tương ứng với 3 hình thức thu nhập: địa chủ - địa tô, nhà tư bản – lợi nhuận và công nhân – tiền lương.
      • Lương ở xã hội trước tư bản thì người lao động được hưởng toàn bộ giá trị sản phẩm đầu ra. Trong xã hội tư bản thì người lao động chỉ được hưởng một phần giá trị, nhưng nó phải đảm bảo được cuộc sống vật chất tối thiểu để người lao động có thể tái tạo sức lao động.
      • Lương phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nghĩa là nếu tốc độ tăng của cải của quốc gia tăng thì lương tăng và ngược lại. Vì vậy, không nên tổ chức công đoàn để đòi tăng lương.
      • Lương cũng bị ảnh hưởng bởi đặc điểm cụ thể của lao động như điều kiện lao động, tính chất công việc, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp… Những ngành mà điều kiện lao động khó khăn thì lương cần phải trả cao hơn để thu hút lao động.
      • Lương có quan hệ với tỉ lệ sinh. Lương cao à tỉ lệ sinh tăng à tăng cung lao động à tăng cạnh tranh lao động à lương giảm lại và ngược lại.
      • Ông là người ủng hộ trả lương cao vì lương cao sẽ kích thích tăng năng suất dẫn đến tích luỹ tư bản tăng và lại khiến nhu cầu sử dụng lao động tăng, từ đó Kinh tế tăng trưởng.
    • Lợi nhuận
      • Lợi tức là bộ phận của lợi nhuận mà người đi vay trả cho người cho vay (lãi vay). Vì vậy lợi tức tỉ lệ thuận với lợi nhuận.
      • Ông nhìn thấy được xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ lệ lợi nhuận giảm dần khi tư bản đầu tư tăng.
    • Địa tô
      • Là một phần của lợi nhuận, người nào là chủ sở hữu ruộng đất thì sẽ nhận được địa tô (tiền thuê ruộng đất).
      • Địa tô cao là do đất đai xấu bị đưa vào sản xuất. Cùng một sản lượng đầu vào nhưng đất tốt có lượng đầu ra nhiều hơn nên địa tô cao hơn. Vì vậy, địa tô cao là kết quả chứ không phải là nguyên nhân khiến giá nông sản cao.
      • Tiền tô là tổng của địa tô và lợi tức của tư bản đầu tư cải tạo đất đai mang lại.[1]

  • David Ricardo:
    • Lương: Ngược lại với Smith, ông ủng hộ với chế độ trả lương thấp, vì lương cao sẽ dẫn đến lợi nhuận giảm và không khuyến khích đầu tư. Ông cũng thấy được mối quan hệ giữa lương và tỉ lệ sinh như Smith.
    • Lợi nhuận: Ông giải thích hiện tượng xu hướng lợi nhuận giảm dần do đầu tư tăng là do đất đai xấu bị đưa vào sản xuất nên dẫn đến chi phí tăng à giá nông sản tăng à lương tăng. Cùng với địa tô tăng khiến cho lợi nhuận giảm. Kết quả công nhân không lợi nhưng không thiệt (lương danh nghĩa tăng nhưng mức lương thực thì không đổi), địa chủ có lợi do địa tô tăng, chỉ nhà tư bản bị thiệt do lợi nhuận giảm.
    • Địa tô: Địa tô tăng là biểu hiện của xã hội bị bần cùng hoá, do mức sống bị giảm xuống (cùng số tiền nhưng mua được lượng ít hơn). Vì vậy cần phải ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp để tăng năng suất và hạn chế sử dụng đất đai xấu.

  • K. Marx:
    • Lương
      • Lương là giá cả của sức lao động, biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
      • Giá trị lao động tạo thành bởi 2 yếu tố: tư liệu sinh hoạt và quá trình đào tạo
      • Xu hướng tiền lương thực tế sẽ bị giảm dần theo thời gian dưới chế độ tư bản
    • Lợi nhuận, lợi tức, địa tô đều là biểu hiện của giá trị thặng dư bị giới chủ bóc lột giới lao động làm thuê

  • Trường phái Tân cổ điển:
    • Bohm Bawerh: Lợi tức tỉ lệ nghịch với cơ cấu[2] và độ dài của thời kỳ sản xuất.
    • J. B. Clark và J. M. Clark (trường phái giới hạn): quy luật năng suất biên giảm dần. Người công nhân được thuê sau cùng là người quyết định năng suất của tất cả các công nhân khác. Lương nên trả dựa theo sản phẩm mà người công nhân đó tạo ra thêm khi người đó được thuê, như vậy sẽ công bằng vì người công nhân không bị bóc lột.
    • Pareto (trường phái thành Lausane): lợi tức là giá cả của tiết kiệm[3] và phụ thuộc vào 2 yếu tố: thu nhập kỳ vọng khi vay đầu tư và nhu cầu dự trữ
    • Alfred Marshall (trường phái Cambridge): Lợi tức của quốc gia được phân phối thành thu nhập của dân chúng quốc gia đó. Tiết kiệm nhiều sẽ giúp tăng tư bản và giảm lợi tức.
    • K. Wicksell: lợi tức có 2 loại: lợi tức tự nhiên và lợi tức của tiền. Tỉ lệ lợi tức tự nhiên phụ thuộc vào tỉ lệ sinh lợi của tư bản vay. Tỉ lệ lợi tức của tiền là lãi suất cho vay trên thị trường, phụ thuộc vào cung cầu và có khi bị tác động bởi các ngân hàng qua lãi suất trần quy định. Thông thường, tỉ lệ lợi tức của tiền có xu hướng trùng với tỉ lệ lợi tức tự nhiên. Nhưng vì các nhà tư bản có xu hướng cạnh tranh nhau nên dẫn đến 2 tỉ lệ này không bằng nhau từ đó dẫn đến tiền tệ bị mất cân đối.

  • John M. Keynes:
    • Tiền tệ là hình thức dự trữ của cải thuận tiện nhất
    • Có 2 yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất: lượng cung tiền và sự ưa chuộng tiền mặt. Sự ưa chuộng tiền mặt lại do 3 động lực chính quyết định: động lực giao dịch, động lực dự phòng và động lực đầu cơ. Nếu có thị trường chứng khoán thì động lực đầu cơ tăng lên, nếu không thì động lực dự phòng tăng lên.
    • Lãi suất mang tính tâm lý và quy ước, nghĩa là dân chúng có thể chấp nhận nếu có sự giảm sút lãi suất vừa phải. Nhà nước có thể dựa vào đó để điều chỉnh lãi suất tác động vào nền kinh tế, nhằm đạt những mục tiêu kinh tế mong muốn.

  • P. Samuelson, Milton Spencer, David Begg (Trường phái Tài chính hiện đại)
    • Đầu vào của nền kinh tế gồm Tài sản (Đất đai và Vốn) và Nhân lực (Lao động và Tài kinh doanh)
    • Các hình thức thu nhập tương ứng: Người lao động – Lương, Chủ sở hữu đất đai – Địa tô, Người có vốn – Lãi suất, Người có tài kinh doanh – Lợi nhuận
    • Chênh lệch lương là do Giới tính, Nhóm các ngành nghề, chất lượng lao động thể hiện ở kỹ năng và quá trình đào tạo.
    • Tiền lương cao làm tăng năng suất lao động và chi phí sản xuất lại hạ thấp xuống. Lương thấp làm chất lượng và hài lòng của công nhân bị giảm nên công ty bị thua thiệt hơn là được lợi.
    • Địa tô được hiểu ở nghĩa rộng hơn là thu nhập có được do cho thuê BĐS, tiền sáng chế, bản quyền viết sách, tiền các vận động viên, diễn viên được thuê quảng cáo.
    • Lãi suất là sự phản ánh của sự khan hiếm vốn.

Bài viết được tóm lược dựa trên nội dung sách của Đinh Sơn Hùng và Trương Thị Hiền 2009, Những vấn đề cơ bản của các Lý thuyết kinh tế, NXB Tổng hợp Tp. HCM. Ngoài ra những giải thích là ý kiến riêng của người viết cho dễ hiểu.



[1] Ví dụ khi thuê đất giống nhau nhưng nếu có chăm bón tưới tiêu tốt thì miếng đất được chăm sóc sẽ cho sản lượng đầu ra nhiều hơn. Phần chênh lệch so với miếng đất không được chăm sóc đó là lợi tức của tư bản đầu tư vào.
[2] Ví dụ ngành công nghiệp nặng sẽ lâu lấy lại vốn hơn ngành công nghiệp nhẹ
[3] Nghĩa là thay vì chi tiêu thì tiết kiệm đem cho vay hay gửi ngân hàng sẽ có được lợi tức

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

Những lý luận về Giá trị


Những lý luận về Giá trị

  • Aristote: phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của vật phẩm. Để thực hiện được trao đổi thì chúng phải bằng nhau thông qua công cụ tiền tệ.

  • Saint Thomas d’Aquin: ngoài việc giá cả được đo thông qua hao phí lao động là cơ sở thì giá cả hàng hoá còn khác nhau nếu người giao dịch thuộc đẳng cấp khác nhau và khi đó mới gọi là giá cả công bằng.

  • William Petty: Giá cả có 2 loại: giá cả chính trị (giá thị trường) và giá cả tự nhiên (giá trị). Giá thị trường mang tính ngẫu nhiên, khó xác định. Giá cả tự nhiên phụ thuộc vào giờ lao động và đất đai, do đất đai tốt sẽ dẫn đến năng suất tăng.

  • Francois Quesnay: giá trị chỉ được tạo ra trong sản xuất, không phải trong lưu thông. Công nghiệp chỉ đóng vai trò tạo ra máy móc phục vụ cho nông nghiệp và nông nghiệp mới là lĩnh vực tạo ra sản phẩm gia tăng, do nhờ đất đai giúp tăng sản phẩm đầu ra (Steven Pressman 2003).

  • Anne B. J. Turgor: Giá trị có 2 loại: giá trị chủ quan và giá trị khách quan (được đánh giá bởi thị trường. Giá trị trao đổi phụ thuộc giá trị chủ quan (được đánh giá bởi người mua), nghĩa là giá trị trao đổi do lợi ích sản phẩm đối với người mua quyết định chứ không phải do lao động quyết định.

  • Adam Smith:
    • Khẳng định giá trị sử dụng không quyết giá trị trao đổi.
    • Tất cả lao động đều tạo ra giá trị và lao động là thước đo cuối cùng của giá trị, Nhưng lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
    • Trong nền kinh tế giản đơn giá trị do lao động tạo thành, nhưng trong nền kinh tế thị trường giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, là tổng 3 yếu tố lương, lợi nhuận, địa tô, nhưng tiền lương là thước đo lý tưởng nhất để đo giá trị.
    • Trong nền kinh tế giản đơn, giá trị hàng hoá có thể được biểu hiện thông qua giá trị trao đổi là số lượng hàng hoá khác. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển thì giá trị hàng hoá được biểu hiện thông qua tiền tệ.

  • David Ricardo:
    • Ngược lại với Smith, giá trị không phụ thuộc vào lương, lương tăng thì sẽ khiến lợi nhuận giảm vì vậy giá trị không đổi.
    • Giá trị luôn do lao động quyết định, không những chỉ lao động hiện tại mà còn cả lao động trong quá khứ của các nguyên liệu, máy móc… mặc dù ông chưa phân tích việc phân bổ chúng như thế nào.
    • Hai nhân tố ảnh hưởng đến giá trị: đối với hàng khan hiếm thì giá do chính giá trị sử dụng của hàng hoá quyết định. Đối với hàng phổ cập thì do lao động quyết định giá.

  • Jean Baptiste Say:
    • Giá cả là thước đo của giá trị, còn giá trị là thước đo của ích lợi sản phẩm. Ích lợi càng nhiều thì giá trị càng cao, sản phẩm càng nhiều thì giá trị àng lớn. Ích lợi có thể như nhau mặc dù mục đích sử dụng khác nhau.
    • Ích lợi có 2 loại , loại không tốn tiền mua, không mất sức lực để có và loại phải mua do có chi phí để sản xuất.

  • Pierr J. Proudon:
    • Giá trị gồm giá trị sử dụng thể hiện sự dồi dào, giá trị trao đổi thể hiện sự khan hiếm (đối lập nhau).
    • Hàng hoá chỉ được trao đổi khi hai giá trị sử dụng và giá trị trao đổi bằng nhau qua giá trị xác lập. Giá trị xác lập lại do quá trình trao đổi xác nhận và được xã hội dần thừa nhận.

  • K. Marx: giá trị do lao động tạo thành nhưng lao động có 2 loại: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá.

  • Trường phái Tân cổ điển:
    • K. Menger: giá trị tuân theo quy luật Lợi ích biên giảm dần, nghĩa là vật càng nhiều thì lợi ích càng giảm, lợi ích của vật sau ít hơn lợi ích của vật có trước.
    • Bohm Bawerh: giá trị gồm 4 hình thức: Giá trị sử dụng chủ quan, Giá trị trao đổi chủ quan, Giá trị sử dụng khách quan và Giá trị trao đổi khách quan.
VD:     Để xác định giá trị của tủ sách thì căn cứ vào người chủ sở hữu nó. Nếu chủ là nhà buôn thì tủ sách có giá trị trao đổi. Nếu chủ là nhà trí thức thì nó có giá trị sử dụng. Cả nhà buôn và nhà trí thức đều là chủ quan. Vậy tủ sách có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi chủ quan.
            Nếu đốt một mét khối củi để tạo ra nhiệt lượng rồi dùng vào việc gì đó thì nó có giá trị sử dụng khách quan. Nhưng nếu căn cứ vào số nhiệt lượng tạo ra và đem đổi củi để lấy vật khác thì nó có giá trị trao đổi khách quan. Khách quan ở đây là vì củi tạo ra nhiệt lượng, không phụ thuộc vào ý muốn của người khác.
    • Von Wieser: giá trị khác ích lợi. Muốn tăng giá trị hàng hoá thì phải tạo ra sự khan hiếm. Nếu lượng tăng mãi thì ích lợi của vật không bằng không mà vật chỉ có ích lợi trừu tượng và không tạo ra giá trị.


Bài viết được tóm lược dựa trên nội dung sách của Đinh Sơn Hùng và Trương Thị Hiền 2009, Những vấn đề cơ bản của các Lý thuyết kinh tế, NXB Tổng hợp Tp. HCM. Ngoài ra có tham khảo thêm sách của Steven Pressman 2003, 50 nhà kinh tế tiêu biểu, NXB Lao động để giải thích.

Ngôn ngữ học, p4 - Cú pháp học


Cú pháp học (Syntax) là ngành khoa học nghiên cứu về sự sắp xếp các từ, ngữ để tạo thành ngữ, câu có ý nghĩa. Mỗi ngôn ngữ khác nhau có sự sắp xếp khác nhau nên có sự phân tích cấu trúc ngữ pháp khác nhau.
  • Cụm từ (Phrase): còn gọi là ngữ, do nhiều từ kết hợp tạo thành và có ý nghĩa
VD:     my house, pupils’ books, a book of mine, …
  • Câu (Sentence): do sự kết hợp của từ, ngữ hoặc câu tạo thành. Câu có thể có đầy đủ kết cấu Chủ - Vị (Mệnh đề - Clause) hay không đầy đủ Chủ - Vị (Câu tỉnh lược). Câu phải có ý nghĩa và có thể đứng độc lập. Trường hợp là câu tỉnh lược thì có thể suy luận ra được cấu trúc ngữ pháp dựa vào câu hỏi của câu đó.
VD:     My book is in English.
            Who did it? I. / (Đầy đủ: I did it.)

Phân tích cấu trúc Câu (Tree Diagram):
Khi phân tích cấu trúc câu luôn phân chia thành 2 phần, Chủ và Vị (trừ trường hợp câu tỉnh lược).

Có thể lập cấu trúc phân chia cho đến đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được như Hình vị. thường phân chia đến đơn vị là Từ, hoặc Ngữ ở cấp độ 2 từ, kết hợp giữa Danh từ với các Mạo từ, Tính từ… mang tính bổ nghĩa (Modifier).
Từ được chia thành 2 nhóm[1]:
  • Từ mở (Open Classes): gồm có Danh từ (Noun), Động từ (Verb), Tính từ (Adjective) và Trạng từ (Adverb). Các từ này thường có khuynh hướng liên hệ với các vật, hành động trong cuộc sống.
  • Từ đóng (Closed Classes): gồm: Đại từ (Pronounce), Số từ (Numeral), Xác định từ[2] (Determiner), Giới từ (Prepostion) và Liên từ (Conjunction). Các từ này có khuynh hướng chỉ liên hệ với chính bản thân từ đó trong câu.

Phân chia cấu trúc câu có thể chia làm 2 kiểu chia:
  • Từ trên xuống: theo cấp độ cấu trúc Câu rồi chia nhỏ theo Từ (ở đây sẽ chủ yếu sử dụng dạng này do các sách tham khảo tiếng Anh đều sử dụng).
  • Từ dưới lên[3]: theo cấp độ Từ, Ngữ rồi đến Câu.

Câu được chia làm 3 loại[4]:
  • Câu đơn: chỉ gồm một cấu trúc Chủ - Vị
  • Câu phức: gồm nhiều Chủ - Vị nhưng chỉ có một Chủ - Vị chính trong câu
  • Câu ghép: gồm nhiều Chủ - Vị và được nối với nhau, có quan hệ ngang nhau trong câu về mặt ngữ pháp, nghĩa là được nối chứ không bị lồng ghép nhau.

Ngữ có 5 chức năng trong câu[5]:
  • Chủ ngữ (Subject): thường là ngữ danh từ.
VD:     She smiles.
  • Động từ (Verb): là ngữ động từ, gồm động từ chia thuộc ngữ pháp (Auxiliary Verb) và động từ mang ý nghĩa chính (Lexical Verb)
VD:     She is singing a song.
            She sings a song.
  • Tân ngữ (Object): thường là các Danh từ, Đại từ, có 2 loại
    • Tân ngữ trực tiếp (Direct Object) nếu đối tượng chịu tác động trực tiếp bởi hành động của Chủ ngữ. Để nhận biết một câu có Tân ngữ trực tiếp không thì cần đặt câu hỏi What, Whom, nếu có câu trả lời thì câu đó có Tân ngữ trực tiếp.
    • Tân ngữ gián tiếp (Indirect Object), đối tượng nhận Tân ngữ trực tiếp. Dấu hiệu nhận biết, câu trả lời cho To whom, for whom[6].
VD:     Jim is waiting for a big surprise.
                              Jim gave his wife a yellow flower.
  • Bổ ngữ bắt buộc (Complement)[7]:
    • Bổ ngữ Chủ ngữ (Subject Complement): giống Tân ngữ nhưng là đứng sau các Linking verbs bổ nghĩa cho chính Chủ ngữ.
VD:     Jim has become a qualified engineer.
    • Bổ ngữ Tân ngữ (Object Complement): bổ nghĩa cho Tân ngữ chứ không phải Chủ ngữ.
VD:     I consider Jim a qualified engineer.
    • Bổ ngữ Động từ (Verb Complement): chính là các Tân ngữ trực tiếp và gián tiếp.
VD:     Jim gave his wife a yellow flower.
  • Bổ ngữ tự do (Adjunct): thường là các Ngữ Trạng từ, Giới từ hay Danh từ, mục đích thêm vào câu để nghĩa thêm phong phú, nhưng có thể bỏ đi mà nghĩa của câu không bị thay đổi.
VD:     Tom walked there very quickly.
            Sue walked to the farm after lunch.




Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu tỉnh lược.  



Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.
 

Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.

 Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.


Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.



Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.




Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu phức. 



Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu ghép.



Kiểu phân chia từ Dưới lên, với cấu trúc là Câu đơn. 




Tài liệu tham khảo

  1. Cao Xuân Hạo a 2006, Âm vị học và Tuyến tính – Suy nghĩ về các định đề của Âm vị học đương đại, lần 3, Tp. HCM, NXB Khoa học Xã hội
  2. Cao Xuân Hạo b 2006, Tiếng Việt, Sơ thảo ngữ pháp chức năng, lần 3, Tp. HCM, NXB Khoa học Xã hội
  3. Z.S.Harris, Những phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc, dịch: Cao Xuân Hạo, Tp. HCM, NXB Khoa học Xã hội
  4. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật và Nguyễn Minh Thuyết 2007, Dẫn luận Ngôn ngữ học, lần 12, Hà Nội, NXB Giáo dục
  5. Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung 2006, Ngữ pháp Tiếng Việt, tập 1, lần 9, Hà Nội, NXB Giáo dục
  6. Diệp Quang Ban 2006, Ngữ pháp Tiếng Việt, tập 2, lần 9, Hà Nội, NXB Giáo dục

  1. Peter Roach 2009, English Phonetics and Phonology, lần 2, England, Cambridge University Press
  2. Howard Jackson 1982, Analyzing English, An Introduction to Descriptive Linguistics, 2nd, Pergamon Institute of English,

  1. Ebook C. L. Baker 1995, English Syntax, 2nd, The MIT Press http://books.google.com.vn/books?id=mb9hyi_kL9YC&pg=PA337&hl=vi&source=gbs_toc_r&cad=3#v=onepage&q&f=false


Website:


[1] Howard Jackson 1982, trang 7
[2] Bổ nghĩa khác cho Danh từ như Mạo từ, Chỉ định từ, Sở hữu cách…, Howard Jackson 1982, trang 10 và http://en.wikipedia.org/wiki/Determiner_(linguistics), truy cập 16/3/2012
[3] Nguyễn Thiện Giáp 2007, trang 259
[4] Diệp Quang ban 2006, trang 112
[5] Howard Jackson 1982, trang 29