Hôm nay nay tôi xin được tóm tắt sơ qua những nguyên tắc chính trong đầu tư của 3 thiên tài đầu tư cơ bản (Warrant Buffet, Benjamin Graham và William J. ONeil), để những bài phân tích tiếp theo tôi sẽ phân tích những cổ phiếu theo dung 3 tiêu chí này.
1. Chiến lược đầu tư của huyền thoại Warrant Buffet
Đầu tư là đầu tư vào công ty chứ không phải đầu tư vào cổ phiếu. Có nghĩa sau khi phân tích lựa chọn được cổ phiếu ông thường không quan tâm đến giá cả thị trường nhiều mà tâp trung nắm giữ dài hạn. Cho đến khi những yếu tố mà ông quan tâm thỏa mãn hoặc có sự vi phạm quan trọng trong một vài yếu tố chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển của doanh nghiệp. Vì là quỹ lớn nên ông thường kiểm soát được hoạt động, nhưng trước đây ông cũng như chúng ta, chỉ chọn cổ phiếu tốt và nắm giữ.
Những câu hỏi đưa ra trước khi chọn cổ phiếu.
- Cty có phát triển tốt không, có lợi thế cạnh tranh không? Warren Buffett chỉ muốn mua CP của Cty có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc là Cty dẫn đầu thị trường của ngành kinh doanh chính của nó; hoặc là có thương hiệu được khách hàng đánh giá cao. Ông không muốn đầu tư vào những Cty không có lợi thế cạnh tranh và chỉ có thể cạnh tranh bằng cách giảm giá bán. Ông còn xét xem Cty mà ông sắp đầu tư có nguy cơ bị Cty lớn mạnh khác nhảy vào cạnh tranh hay không. Ông là người sáng chế ra từ “economic moat” ngụ ý Cty đó có lợi thế cạnh tranh và tạo ra “hàng rào” ngăn cản sự cạnh tranh của các Cty khác.
- Cty đó có mô hình kinh doanh đơn giản không? Warren Buffett chỉ đầu tư vào các Cty có mô hình đơn giản, dễ hiểu, không quá phức tạp. Ông chỉ đầu tư vào những ngành mà ông biết rất rõ.
- LN Cty tốt, tăng trưởng ổn định không?
- Tỷ số nợ trên vốn có thấp không? Tỷ số LN trên nợ có cao không? Giả sử LN không đạt được mức kỳ vọng, Cty có khả năng trả được nhũng món nợ đến hạn không?
- Tỷ lệ LN trên vốn đầu tư có tốt không? Đây là một trong những chỉ số mà Buffett đặc biệt quan tâm. Ông chỉ đầu tư vào những Cty tạo ra mức LN tốt.
- Chi phí vận hành của Cty có ở mức chấp nhận được hay không?
- Dòng tiền mặt để đầu tư có đủ lớn để tạo ra LN và sự tăng trưởng?
- Cty có giữ lại LN để tái đầu tư hay không? Việc Cty chia cổ tức hay không chia cổ tức là một trong những điểm khác biệt giữa Benjamin Graham và Warren Buffett. Benjamin Graham cho rằng Cty nên chia cổ tức cho nhà đầu tư. Đối với ông, cổ tức được chia tốt hơn cổ tức được giữ lại trong Cty. Trong khi đó, Warren Buffett muốn Cty giữ lại LN để tái đầu tư. Ông cho rằng, nếu như Cty đang làm ra LN tốt - bằng hay cao hơn mức lãi suất mong muốn - thì Cty nên giữ LN lại để tái đầu tư. Khi đó Cty sẽ trở thành một máy in tiền với tốc độ ngày càng tăng cao nhờ hiệu ứng tuyệt vời của lãi suất kép.
- Ban lãnh đạo có giỏi, có tầm nhìn, có bề dày thành tích về quản lý kinh doanh, có đạo đức không? Buffett chỉ đầu tư vào những Cty ông tin rằng ban lãnh đạo có năng lực.
Chọn thời điểm mua:
- Ông không bao giờ vội vã mua những CP có biên độ an toàn không rõ ràng. Thường thì ông sẽ đợi khi thị trường vào giai đoạn điều chỉnh hoặc khi thị trường đang thời kỳ giảm giá mạnh. Khi đó ông sẽ mua được CP của Cty với giá thấp hơn giá trị nội tại của nó. Phương pháp đầu tư đơn giản này đã giúp ông thành công lớn và trở thành một trong những người có tài sản lớn nhất thế giới.
Không quan tâm :
- Với chiến lược đầu tư nói trên Warren Buffett không quan tâm nhiều đến sự lên xuống của giá cả thị trường chứng khoán cũng như chu kỳ kinh tế. Nói đúng hơn ông chỉ quan tâm đến việc lên xuống giá khi ông chọn thời điểm mua. Khi đã mua rồi, ông không quan tâm đến sự lên xuống của giá nữa.
- Một điểm nữa khá đặc biệt là ông rất ít quan tâm đến việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Nhiều NĐT đã nghiên cứu và thực hiện thành công các phương pháp đa dạng hóa danh mục đầu tư tức là chọn nhiều CP của các Cty khác nhau, ngành khác nhau có tác dụng bổ sung, tương hỗ nhằm đạt được LN cao nhất có thể trong khi giảm rủi ro đến mức thấp nhất. Warren Buffett không theo trường phái đa dạng hóa này. Ông cho rằng nếu đã chọn được doanh nghiệp tốt để đầu tư thì sẽ đạt LN cao và rủi ro thấp. Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, tức là chọn thêm những CP khác vào danh mục đầu tư sẽ giảm LN cao tạo ra từ Cty/CP chính yếu.
- Theo ông, nếu “lỡ” đầu tư vào doanh nghiệp có lãi suất thấp hơn kỳ vọng, thì hãy rút ra càng sớm càng tốt, vì càng để lâu, NĐT càng bị lỗ và vì thế mất cơ hội đầu tư ở Cty tốt. Còn nếu đã đầu tư đúng Cty làm ăn hiệu quả, thì đừng rút tiền gốc và cổ tức ra khỏi doanh nghiệp. Càng để lâu bao nhiêu thì LN sinh ra càng cao bấy nhiêu
2. Chiến lược đầu tư của huyền thoại Benjamin Graham
Benjamin Graham đưa ra ba tiêu chuẩn chính trong đầu tư giá trị của mình, đó là: Chỉ tiêu LN, chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu lợi nhuận/doanh thu.
Chỉ tiêu LN
- Thu nhập dòng hay LN sau thuế có thể được xem xét bằng tổng LN hay xét trên một đơn vị CP (EPS). Một Cty có sự gia tăng về tốc độ tăng trưởng thu nhập khi tốc độ tăng trưởng thu nhập của quý sau cao hơn quý trước.
- Một CP tốt có tốc độ gia tăng về tăng trưởng thu nhập cao hơn so với 3 hay 4 quý trước liền kề. Tăng trưởng của chỉ số thu nhập ít nhất là 25% so với cùng quý của năm trước. EPS hàng năm của CP tốt ít nhất phải tăng trưởng 25% so với 3 năm trước đó.
- Theo cách nghĩ thông thường thì nên chọn mua những CP có P/E thấp (P/E: Chỉ số giá chia cho thu nhập của mỗi CP), và cho rằng những CP có chỉ số này cao là đắt và không nên mua.
- Thực tế cho thấy, những CP tốt nhất thường có chỉ số này cao. Nên chọn CP của những Cty thua lỗ trước khi Cty đó trở lại trạng thái có lãi khi các NĐT khác phát hiện ra nó.
- Một số tiêu chí chọn lựa CP căn cứ vào chỉ tiêu LN bao gồm: Dựa vào thực hiện thu nhập quan trọng hơn thu nhập dự kiến; lựa chọn những Cty có tốc độ tăng trưởng thu nhập ít nhất 25% ở quý gần nhất; lựa chọn Cty có sự gia tăng về tốc độ tăng trưởng thu nhập ở 3 hay 4 quý gần nhất; lựa chọn Cty có thu nhập hàng năm tăng trưởng ít nhất 25% so với mỗi năm của 3 năm trước.
Doanh thu (Lượng hàng bán).
- Lượng hàng bán là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường một Cty có sức mạnh hay không và là nhân tố chính của tăng trưởng. Khi chọn lựa CP tốt hãy tìm Cty có tốc độ bán hàng mạnh để làm tiền đề cho tăng trưởng thu nhập.
- Một số biểu hiện có thể xem xét khi một Cty gia tăng lượng hàng bán như nhiều khách hàng hơn, khách hàng tăng lượng mua, Cty giới thiệu sản phẩm mới hoặc thâm nhập vào thị trường mới, Cty cải thiện sản phẩm cũ.
- Tiêu chí để xác định Cty có tăng trưởng bán hàng tốt nếu 3 quý gần nhất có sự tăng lượng hàng bán lớn hơn hoặc bằng 25% so với quý gần nhất trước đó
- Cần xem xét kỹ chỉ tiêu doanh thu vì đôi khi lượng hàng bán vẫn ẩn chứa những vấn đề. Cty có thể quá phụ thuộc vào một số khách hàng, phụ thuộc quá nhiều vào một số mặt hàng hay quá phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu.
- Với những nhà bán lẻ, nếu mở thêm một cửa hàng mới cũng làm tăng thêm lượng hàng bán ngay cả khi lượng hàng bán ở những cửa hàng cũ đang xấu đi.
- Cũng cần lưu ý đến việc Cty thêm vào lượng hàng bán được mà thực tế nó chưa xảy ra, hay các đơn đặt hàng mà không được chuyển đi hay chưa thu được tiền bán đã được hạch toán làm gia tăng lượng hàng bán.
Chỉ tiêu LN/doanh thu
- LN ròng đánh giá tỷ lệ chuyển doanh thu thành thu nhập. Trên quan điểm của nhà đầu tư, nên tìm những Cty có sự tăng về tỷ lệ LN dòng/doanh thu. Con số này càng lớn thì Cty có sự tốt lên về quản lý và có sự tốt lên trong các hoạt động.
- LN ròng có thể là đầu mối chủ yếu tìm CP để mua và nên so sánh chỉ số này giữa các Cty có ngành nghề tương đồng. Tiêu chí để xác định cho chỉ tiêu này là LN trước thuế ít nhất đạt 18% doanh thu. Yêu cầu LN sau thuế luôn đạt 10% trở lên.
- Tuy nhiên, cũng cần phải xét cả những chỉ tiêu cơ bản khác như tăng truởng thu nhập. Mức tăng về LN ròng sẽ ít đi nếu doanh thu giảm, ngoại trừ có sự thay đổi về chiến lược của Cty khi cắt giảm những dây chuyền sản xuất không hiệu quả. Nếu LN có xu hướng giảm, đó có thể là tín hiệu cho thấy Cty đang đánh mất lợi thế cạnh tranh.
3. Chiến lược đầu tư của huyền thoại William J. ONeil (CAN SLIM)
- Các tiêu chuẩn chính
C: Current Quaterly Earnings Per Share (lãi ròng trên mỗi CP của quý gần nhất)
A: Annual Earnings Increases (sự gia tăng lãi ròng hàng năm)
N: New Products, New Management, New Highs (sản phẩm mới, sự quản lý mới, mức giá trần mới)
S: Supply and Demand (nguồn cung và cầu)
L: Leader and Laggard (CP đầu bảng và CP tụt hậu)
I: Institutional Sponsorship (sự ủng hộ của các định chế tài chính và đầu tư)
M: Market Direction (định hướng thị trường)
Tiêu chuẩn C: Current Quaterly Earnings Per Share (lãi ròng trên mỗi CP của quý gần nhất)
- William nhận định rằng, hầu hết các CP tốt đều có sự gia tăng LN so với cùng quý năm trước đó và tỷ lệ tăng càng cao thì chứng tỏ CP càng có nhiều triển vọng. Theo ông, các NĐT trước khi bỏ tiền ra mua CP cần xem xét tới sự gia tăng mạnh mẽ LN của CP đó, cụ thể là mức tăng trưởng của lãi ròng trên mỗi CP trong 3 tháng gần nhất.
- Nhưng phải tìm hiểu sự gia tăng LN này ở đâu và như thế nào? William cho rằng NĐT có thể nghiên cứu các báo cáo tài chính có kiểm toán của Cty niêm yết, cùng với việc thăm dò các các kênh thông tin khác như báo chí, người quen... Điều quan trọng là các NĐT cần coi trọng độ tin cậy và tính đồng nhất của thông tin, chẳng hạn có thể có điều gì đó không đúng, nếu doanh thu của Cty tăng 20%, trong khi lãi ròng chỉ tăng 5%.
Tiêu chuẩn A: Annual Earnings Increases (sự gia tăng lãi ròng hàng năm)
- Theo ONeil, CP tốt là CP có mức gia tăng LN đều đặn trong vòng 5 năm trước đó. Các NĐT cần đặc biệt lưu ý tới các CP có mức gia tăng LN hàng năm ổn định và đạt trên 25%, tuy nhiên nên chú ý tới chu kỳ kinh doanh của từng ngành, từng Cty. Theo ONeil, tiêu chí này có thể giúp bạn loại bỏ khoảng 80% các CP tồi.
- Để có được sự chính xác về mức gia tăng LN, NĐT cần nghiên cứu tất cả các thông tin liên quan đến Cty mà họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao gồm lịch sử và đặc điểm của Cty, tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành CP và tổ chức bảo lãnh phát hành CP. NĐT có thể tìm các thông tin này trong Bản thông cáo phát hành, trong Báo cáo tài chính của Cty hoặc từ các Cty dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định đầu tư chỉ nên đưa ra khi bạn đã có đủ cơ sở thông tin về CP cũng như về mức tăng trưởng lãi ròng hàng năm.
Tiêu chuẩn N: New Products, New Management, New Highs (sản phẩm mới, sự quản lý mới, mức giá trần mới)
- Những nghiên cứu của William chỉ ra rằng giá CP tăng sẽ bắt nguồn từ một số nhân tố nội tại nào đó. Những nhân tố này thường là sản phẩm mới của Cty, ban giám đốc mới, phương thức quản lý mới hay mức giá trần mới của CP trên thị trường chứng khoán.
- Do vậy, sẽ không bao giờ thừa nếu các NĐT quan tâm đến những nhân tố nội tại này. Nếu xét thấy những nhân tố này có sự ổn định, không có biểu hiện đột biến theo chiều hướng xấu, thì đó sẽ là một CP có nhiều triển vọng tăng trưởng trên thị trường chứng khoán.
Tiêu chuẩn S: Supply and Demand (nguồn cung và cầu)
- Trong KD, quy luật cung cầu luôn có ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản phẩm, và đầu tư CK cũng không phải là một ngoại lệ. Giá CP cũng chịu tác động từ quy luật cung cầu. William cho rằng CP của các Cty đại chúng, có quy mô lớn, sản phẩm chất lượng không phải lúc nào cũng đáng để mua, bởi lượng cầu của những CP này khá lớn, trong khi nguồn cung lại ít nên giá thường bị đẩy lên cao giả tạo, không phản ánh đúng giá trị thực tế của CP cũng như rất khó sinh LN lớn.
Chính những CP có số lượng lưu hành thấp trên thị trường mới có nhiều triển vọng và có khả năng tăng giá hơn so với các CP có số lượng lưu hành lớn. Từ đó suy ra, CP được các nhà quản trị hàng đầu nắm giữ với tỷ lệ lớn thường là những CP có độ an toàn cao. William đặc biệt lưu ý tới các CP được Cty mua lại và CP của các Cty có tỷ lệ nợ dài hạn trên vốn tự có vừa phải, bởi theo ông thì tỷ lệ này càng cao bao nhiêu Cty sẽ càng phải đương đầu với áp lực trả lãi trong tương lai nhiều bấy nhiêu. Các NĐT nên so sánh tỷ số này ở Cty mình dự định đầu tư với tỷ số nợ bình quân ở các Cty trong cùng ngành, đồng thời phân tích thêm khả năng thanh toán để có đánh giá xác thực hơn về mức độ nợ của Cty.
Tiêu chuẩn L: Leader and Laggard (CP đầu bảng và CP tụt hậu)
- Theo ONeil, NĐT trên thị trường chỉ nên mua 2 hay 3 CP tốt nhất trong nhóm những CP đầu bảng hiện tại, còn lại nên dành tiền cho những CP có khả năng sinh lời trong tương lai. Ðặc biệt, các NĐT cần tránh mua những CP có mức tăng trưởng cao nhưng không bền vững, chẳng hạn như CP lên giá theo trào lưu, theo sự kiện nổi bật… bởi vì các CP này được đánh giá là những CP tụt hậu, không sớm thì muộn cũng mất giá.
Tiêu chuẩn I: Institutional Sponsorship (sự ủng hộ của các định chế tài chính và đầu tư)
- Định chế tài chính đầu tư ở đây thường là các cơ quan chức năng, các cơ quan chính phủ chuyên về tài chính đầu tư. Các cơ quan này có thể nắm giữ một số lượng CP nhất định của các Cty nào đó, nhờ vậy mà Cty sẽ có sự ủng hộ và trợ giúp mạnh mẽ từ những cơ quan này, một điều kiện vô cùng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, khiến giá CP tăng mạnh. Tuy nhiên, một số lượng quá lớn các định chế tài chính đầu tư nắm giữ CP lại trở thành yếu tố bất lợi, vì điều đó đồng nghĩa với việc nguồn cung sẽ hạn chế bởi các cơ quan ít khi muốn bán từng phần CP của mình, đẩy tính thanh khoản của CP xuống thấp.
Tiêu chuẩn M: Market Direction (định hướng thị trường)
- Cho dù bạn hoàn toàn chính xác khi nhận định về cả 6 tiêu chí kể trên, nhưng đến tiêu chí định hướng thị trường bạn mắc phải sai lầm thì sẽ có đến 5 trong số 7 CP bạn mua sẽ mất giá và khiến bạn thua lỗ. Yếu tố thị trường là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến giá CP. Khi hàng loạt các CP cùng ngành trên thị trường bị mất giá, thì giá CP của Cty mà bạn lựa chọn chắc chắn cũng sẽ sụt giảm theo. Ngược lại, nếu giá CP của các Cty này tăng theo sự phát triển của thị trường thì CP bạn mua vào cũng được “ăn theo” những chỉ số tích cực đó. Do đó, William nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu các đồ thị biến động giá chứng khoán theo ngày, theo tuần và theo tháng trước mỗi quyết định đầu tư CP.
4. Tóm lại:
- Chìa khoá PT trong đầu tư CP là tìm ra những CP có tiềm năng tăng trưởng lớn nhất trong thời điểm bạn mua chúng. Nói cách khác, bạn phải có kỹ năng phán đoán, xem xét và phân tích vấn đề cùng với việc hoạch định một kế hoạch đầu tư thích hợp để xác định thời điểm mua vào những CP mạnh và bán đi những CP yếu.
- Các quyết định lựa chọn CP cần được dựa trên sự phân tích và phối kết hợp giữa các yếu tố định lượng và định tính. Sự khác biệt giữa NĐT giá trị thành công và thất bại chính là ở phần định tính, đó chính là tâm lý, cảm nhận và sự kiên định – Lão Trịnh