domain, domain name, premium domain name for sales

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2012

Những lý luận về Thu nhập


Những lý luận về Thu nhập

Lợi ích biểu hiện qua Thu nhập, kích thích con người nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.

  • Aristote Saint Thomas d’Aquin: phủ nhận lợi nhuận là mục đích của trao đổi nhưng sau đó Aquin thừa nhận lợi nhuận là hợp pháp.

  • Trường phái trọng thương:
    • Tiền tệ biểu hiện qua vàng, bạc là của cải.
    • Lợi nhuận được tích trữ qua trao đổi không ngang giá. Lợi nhuận làm tăng của cải.
    • Trong trao đổi có người được lợi thì có người sẽ bị thiệt. Vì vậy một quốc để giàu có cần phải xuất khẩu nhiều và thu về vàng bạc.

  • Francois Quesnay:
    • Lợi nhuận trong trao đổi chỉ là do tiết kiệm chi phí mà có, còn trong nông nghiệp thì nhờ đất đai tự nhiên mà khối lượng sản phẩm đầu ra được tăng lên (làm tăng của cải), đó mới là thịnh vượng.
    • Nhà tư bản cũng là người tự trả lương cho mình, nên nếu nhà tư bản có lợi nhuận nghĩa là thu nhập kiếm được nhiều hơn số lương cần phải trả cho bản thân họ. Vì vậy lợi nhuận có được chỉ là do vị thế độc quyền hay thuế quan bóp méo tạo ra (nền kinh tế không có cạnh tranh tự do).

  • William Petty:
    • Lương là khoản tiền để công nhân có thể đảm bảo cuộc sống tối thiểu về vật chất. Lương cao sẽ làm công nhân không muốn làm việc. Vì vậy cần phải hạ lương thấp.
    • Người có tiền để có thu nhập cần mua đất đai để có địa tô hay gửi ngân hàng để có lợi tức.

  • Adam Smith:
    • Lương
      • Xã hội có 3 giai cấp tương ứng với 3 hình thức thu nhập: địa chủ - địa tô, nhà tư bản – lợi nhuận và công nhân – tiền lương.
      • Lương ở xã hội trước tư bản thì người lao động được hưởng toàn bộ giá trị sản phẩm đầu ra. Trong xã hội tư bản thì người lao động chỉ được hưởng một phần giá trị, nhưng nó phải đảm bảo được cuộc sống vật chất tối thiểu để người lao động có thể tái tạo sức lao động.
      • Lương phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nghĩa là nếu tốc độ tăng của cải của quốc gia tăng thì lương tăng và ngược lại. Vì vậy, không nên tổ chức công đoàn để đòi tăng lương.
      • Lương cũng bị ảnh hưởng bởi đặc điểm cụ thể của lao động như điều kiện lao động, tính chất công việc, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp… Những ngành mà điều kiện lao động khó khăn thì lương cần phải trả cao hơn để thu hút lao động.
      • Lương có quan hệ với tỉ lệ sinh. Lương cao à tỉ lệ sinh tăng à tăng cung lao động à tăng cạnh tranh lao động à lương giảm lại và ngược lại.
      • Ông là người ủng hộ trả lương cao vì lương cao sẽ kích thích tăng năng suất dẫn đến tích luỹ tư bản tăng và lại khiến nhu cầu sử dụng lao động tăng, từ đó Kinh tế tăng trưởng.
    • Lợi nhuận
      • Lợi tức là bộ phận của lợi nhuận mà người đi vay trả cho người cho vay (lãi vay). Vì vậy lợi tức tỉ lệ thuận với lợi nhuận.
      • Ông nhìn thấy được xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ lệ lợi nhuận giảm dần khi tư bản đầu tư tăng.
    • Địa tô
      • Là một phần của lợi nhuận, người nào là chủ sở hữu ruộng đất thì sẽ nhận được địa tô (tiền thuê ruộng đất).
      • Địa tô cao là do đất đai xấu bị đưa vào sản xuất. Cùng một sản lượng đầu vào nhưng đất tốt có lượng đầu ra nhiều hơn nên địa tô cao hơn. Vì vậy, địa tô cao là kết quả chứ không phải là nguyên nhân khiến giá nông sản cao.
      • Tiền tô là tổng của địa tô và lợi tức của tư bản đầu tư cải tạo đất đai mang lại.[1]

  • David Ricardo:
    • Lương: Ngược lại với Smith, ông ủng hộ với chế độ trả lương thấp, vì lương cao sẽ dẫn đến lợi nhuận giảm và không khuyến khích đầu tư. Ông cũng thấy được mối quan hệ giữa lương và tỉ lệ sinh như Smith.
    • Lợi nhuận: Ông giải thích hiện tượng xu hướng lợi nhuận giảm dần do đầu tư tăng là do đất đai xấu bị đưa vào sản xuất nên dẫn đến chi phí tăng à giá nông sản tăng à lương tăng. Cùng với địa tô tăng khiến cho lợi nhuận giảm. Kết quả công nhân không lợi nhưng không thiệt (lương danh nghĩa tăng nhưng mức lương thực thì không đổi), địa chủ có lợi do địa tô tăng, chỉ nhà tư bản bị thiệt do lợi nhuận giảm.
    • Địa tô: Địa tô tăng là biểu hiện của xã hội bị bần cùng hoá, do mức sống bị giảm xuống (cùng số tiền nhưng mua được lượng ít hơn). Vì vậy cần phải ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp để tăng năng suất và hạn chế sử dụng đất đai xấu.

  • K. Marx:
    • Lương
      • Lương là giá cả của sức lao động, biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
      • Giá trị lao động tạo thành bởi 2 yếu tố: tư liệu sinh hoạt và quá trình đào tạo
      • Xu hướng tiền lương thực tế sẽ bị giảm dần theo thời gian dưới chế độ tư bản
    • Lợi nhuận, lợi tức, địa tô đều là biểu hiện của giá trị thặng dư bị giới chủ bóc lột giới lao động làm thuê

  • Trường phái Tân cổ điển:
    • Bohm Bawerh: Lợi tức tỉ lệ nghịch với cơ cấu[2] và độ dài của thời kỳ sản xuất.
    • J. B. Clark và J. M. Clark (trường phái giới hạn): quy luật năng suất biên giảm dần. Người công nhân được thuê sau cùng là người quyết định năng suất của tất cả các công nhân khác. Lương nên trả dựa theo sản phẩm mà người công nhân đó tạo ra thêm khi người đó được thuê, như vậy sẽ công bằng vì người công nhân không bị bóc lột.
    • Pareto (trường phái thành Lausane): lợi tức là giá cả của tiết kiệm[3] và phụ thuộc vào 2 yếu tố: thu nhập kỳ vọng khi vay đầu tư và nhu cầu dự trữ
    • Alfred Marshall (trường phái Cambridge): Lợi tức của quốc gia được phân phối thành thu nhập của dân chúng quốc gia đó. Tiết kiệm nhiều sẽ giúp tăng tư bản và giảm lợi tức.
    • K. Wicksell: lợi tức có 2 loại: lợi tức tự nhiên và lợi tức của tiền. Tỉ lệ lợi tức tự nhiên phụ thuộc vào tỉ lệ sinh lợi của tư bản vay. Tỉ lệ lợi tức của tiền là lãi suất cho vay trên thị trường, phụ thuộc vào cung cầu và có khi bị tác động bởi các ngân hàng qua lãi suất trần quy định. Thông thường, tỉ lệ lợi tức của tiền có xu hướng trùng với tỉ lệ lợi tức tự nhiên. Nhưng vì các nhà tư bản có xu hướng cạnh tranh nhau nên dẫn đến 2 tỉ lệ này không bằng nhau từ đó dẫn đến tiền tệ bị mất cân đối.

  • John M. Keynes:
    • Tiền tệ là hình thức dự trữ của cải thuận tiện nhất
    • Có 2 yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất: lượng cung tiền và sự ưa chuộng tiền mặt. Sự ưa chuộng tiền mặt lại do 3 động lực chính quyết định: động lực giao dịch, động lực dự phòng và động lực đầu cơ. Nếu có thị trường chứng khoán thì động lực đầu cơ tăng lên, nếu không thì động lực dự phòng tăng lên.
    • Lãi suất mang tính tâm lý và quy ước, nghĩa là dân chúng có thể chấp nhận nếu có sự giảm sút lãi suất vừa phải. Nhà nước có thể dựa vào đó để điều chỉnh lãi suất tác động vào nền kinh tế, nhằm đạt những mục tiêu kinh tế mong muốn.

  • P. Samuelson, Milton Spencer, David Begg (Trường phái Tài chính hiện đại)
    • Đầu vào của nền kinh tế gồm Tài sản (Đất đai và Vốn) và Nhân lực (Lao động và Tài kinh doanh)
    • Các hình thức thu nhập tương ứng: Người lao động – Lương, Chủ sở hữu đất đai – Địa tô, Người có vốn – Lãi suất, Người có tài kinh doanh – Lợi nhuận
    • Chênh lệch lương là do Giới tính, Nhóm các ngành nghề, chất lượng lao động thể hiện ở kỹ năng và quá trình đào tạo.
    • Tiền lương cao làm tăng năng suất lao động và chi phí sản xuất lại hạ thấp xuống. Lương thấp làm chất lượng và hài lòng của công nhân bị giảm nên công ty bị thua thiệt hơn là được lợi.
    • Địa tô được hiểu ở nghĩa rộng hơn là thu nhập có được do cho thuê BĐS, tiền sáng chế, bản quyền viết sách, tiền các vận động viên, diễn viên được thuê quảng cáo.
    • Lãi suất là sự phản ánh của sự khan hiếm vốn.

Bài viết được tóm lược dựa trên nội dung sách của Đinh Sơn Hùng và Trương Thị Hiền 2009, Những vấn đề cơ bản của các Lý thuyết kinh tế, NXB Tổng hợp Tp. HCM. Ngoài ra những giải thích là ý kiến riêng của người viết cho dễ hiểu.



[1] Ví dụ khi thuê đất giống nhau nhưng nếu có chăm bón tưới tiêu tốt thì miếng đất được chăm sóc sẽ cho sản lượng đầu ra nhiều hơn. Phần chênh lệch so với miếng đất không được chăm sóc đó là lợi tức của tư bản đầu tư vào.
[2] Ví dụ ngành công nghiệp nặng sẽ lâu lấy lại vốn hơn ngành công nghiệp nhẹ
[3] Nghĩa là thay vì chi tiêu thì tiết kiệm đem cho vay hay gửi ngân hàng sẽ có được lợi tức

Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

Những lý luận về Giá trị


Những lý luận về Giá trị

  • Aristote: phân biệt giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của vật phẩm. Để thực hiện được trao đổi thì chúng phải bằng nhau thông qua công cụ tiền tệ.

  • Saint Thomas d’Aquin: ngoài việc giá cả được đo thông qua hao phí lao động là cơ sở thì giá cả hàng hoá còn khác nhau nếu người giao dịch thuộc đẳng cấp khác nhau và khi đó mới gọi là giá cả công bằng.

  • William Petty: Giá cả có 2 loại: giá cả chính trị (giá thị trường) và giá cả tự nhiên (giá trị). Giá thị trường mang tính ngẫu nhiên, khó xác định. Giá cả tự nhiên phụ thuộc vào giờ lao động và đất đai, do đất đai tốt sẽ dẫn đến năng suất tăng.

  • Francois Quesnay: giá trị chỉ được tạo ra trong sản xuất, không phải trong lưu thông. Công nghiệp chỉ đóng vai trò tạo ra máy móc phục vụ cho nông nghiệp và nông nghiệp mới là lĩnh vực tạo ra sản phẩm gia tăng, do nhờ đất đai giúp tăng sản phẩm đầu ra (Steven Pressman 2003).

  • Anne B. J. Turgor: Giá trị có 2 loại: giá trị chủ quan và giá trị khách quan (được đánh giá bởi thị trường. Giá trị trao đổi phụ thuộc giá trị chủ quan (được đánh giá bởi người mua), nghĩa là giá trị trao đổi do lợi ích sản phẩm đối với người mua quyết định chứ không phải do lao động quyết định.

  • Adam Smith:
    • Khẳng định giá trị sử dụng không quyết giá trị trao đổi.
    • Tất cả lao động đều tạo ra giá trị và lao động là thước đo cuối cùng của giá trị, Nhưng lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
    • Trong nền kinh tế giản đơn giá trị do lao động tạo thành, nhưng trong nền kinh tế thị trường giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, là tổng 3 yếu tố lương, lợi nhuận, địa tô, nhưng tiền lương là thước đo lý tưởng nhất để đo giá trị.
    • Trong nền kinh tế giản đơn, giá trị hàng hoá có thể được biểu hiện thông qua giá trị trao đổi là số lượng hàng hoá khác. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển thì giá trị hàng hoá được biểu hiện thông qua tiền tệ.

  • David Ricardo:
    • Ngược lại với Smith, giá trị không phụ thuộc vào lương, lương tăng thì sẽ khiến lợi nhuận giảm vì vậy giá trị không đổi.
    • Giá trị luôn do lao động quyết định, không những chỉ lao động hiện tại mà còn cả lao động trong quá khứ của các nguyên liệu, máy móc… mặc dù ông chưa phân tích việc phân bổ chúng như thế nào.
    • Hai nhân tố ảnh hưởng đến giá trị: đối với hàng khan hiếm thì giá do chính giá trị sử dụng của hàng hoá quyết định. Đối với hàng phổ cập thì do lao động quyết định giá.

  • Jean Baptiste Say:
    • Giá cả là thước đo của giá trị, còn giá trị là thước đo của ích lợi sản phẩm. Ích lợi càng nhiều thì giá trị càng cao, sản phẩm càng nhiều thì giá trị àng lớn. Ích lợi có thể như nhau mặc dù mục đích sử dụng khác nhau.
    • Ích lợi có 2 loại , loại không tốn tiền mua, không mất sức lực để có và loại phải mua do có chi phí để sản xuất.

  • Pierr J. Proudon:
    • Giá trị gồm giá trị sử dụng thể hiện sự dồi dào, giá trị trao đổi thể hiện sự khan hiếm (đối lập nhau).
    • Hàng hoá chỉ được trao đổi khi hai giá trị sử dụng và giá trị trao đổi bằng nhau qua giá trị xác lập. Giá trị xác lập lại do quá trình trao đổi xác nhận và được xã hội dần thừa nhận.

  • K. Marx: giá trị do lao động tạo thành nhưng lao động có 2 loại: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hoá.

  • Trường phái Tân cổ điển:
    • K. Menger: giá trị tuân theo quy luật Lợi ích biên giảm dần, nghĩa là vật càng nhiều thì lợi ích càng giảm, lợi ích của vật sau ít hơn lợi ích của vật có trước.
    • Bohm Bawerh: giá trị gồm 4 hình thức: Giá trị sử dụng chủ quan, Giá trị trao đổi chủ quan, Giá trị sử dụng khách quan và Giá trị trao đổi khách quan.
VD:     Để xác định giá trị của tủ sách thì căn cứ vào người chủ sở hữu nó. Nếu chủ là nhà buôn thì tủ sách có giá trị trao đổi. Nếu chủ là nhà trí thức thì nó có giá trị sử dụng. Cả nhà buôn và nhà trí thức đều là chủ quan. Vậy tủ sách có giá trị sử dụng và giá trị trao đổi chủ quan.
            Nếu đốt một mét khối củi để tạo ra nhiệt lượng rồi dùng vào việc gì đó thì nó có giá trị sử dụng khách quan. Nhưng nếu căn cứ vào số nhiệt lượng tạo ra và đem đổi củi để lấy vật khác thì nó có giá trị trao đổi khách quan. Khách quan ở đây là vì củi tạo ra nhiệt lượng, không phụ thuộc vào ý muốn của người khác.
    • Von Wieser: giá trị khác ích lợi. Muốn tăng giá trị hàng hoá thì phải tạo ra sự khan hiếm. Nếu lượng tăng mãi thì ích lợi của vật không bằng không mà vật chỉ có ích lợi trừu tượng và không tạo ra giá trị.


Bài viết được tóm lược dựa trên nội dung sách của Đinh Sơn Hùng và Trương Thị Hiền 2009, Những vấn đề cơ bản của các Lý thuyết kinh tế, NXB Tổng hợp Tp. HCM. Ngoài ra có tham khảo thêm sách của Steven Pressman 2003, 50 nhà kinh tế tiêu biểu, NXB Lao động để giải thích.

Ngôn ngữ học, p4 - Cú pháp học


Cú pháp học (Syntax) là ngành khoa học nghiên cứu về sự sắp xếp các từ, ngữ để tạo thành ngữ, câu có ý nghĩa. Mỗi ngôn ngữ khác nhau có sự sắp xếp khác nhau nên có sự phân tích cấu trúc ngữ pháp khác nhau.
  • Cụm từ (Phrase): còn gọi là ngữ, do nhiều từ kết hợp tạo thành và có ý nghĩa
VD:     my house, pupils’ books, a book of mine, …
  • Câu (Sentence): do sự kết hợp của từ, ngữ hoặc câu tạo thành. Câu có thể có đầy đủ kết cấu Chủ - Vị (Mệnh đề - Clause) hay không đầy đủ Chủ - Vị (Câu tỉnh lược). Câu phải có ý nghĩa và có thể đứng độc lập. Trường hợp là câu tỉnh lược thì có thể suy luận ra được cấu trúc ngữ pháp dựa vào câu hỏi của câu đó.
VD:     My book is in English.
            Who did it? I. / (Đầy đủ: I did it.)

Phân tích cấu trúc Câu (Tree Diagram):
Khi phân tích cấu trúc câu luôn phân chia thành 2 phần, Chủ và Vị (trừ trường hợp câu tỉnh lược).

Có thể lập cấu trúc phân chia cho đến đơn vị nhỏ nhất không thể phân chia được như Hình vị. thường phân chia đến đơn vị là Từ, hoặc Ngữ ở cấp độ 2 từ, kết hợp giữa Danh từ với các Mạo từ, Tính từ… mang tính bổ nghĩa (Modifier).
Từ được chia thành 2 nhóm[1]:
  • Từ mở (Open Classes): gồm có Danh từ (Noun), Động từ (Verb), Tính từ (Adjective) và Trạng từ (Adverb). Các từ này thường có khuynh hướng liên hệ với các vật, hành động trong cuộc sống.
  • Từ đóng (Closed Classes): gồm: Đại từ (Pronounce), Số từ (Numeral), Xác định từ[2] (Determiner), Giới từ (Prepostion) và Liên từ (Conjunction). Các từ này có khuynh hướng chỉ liên hệ với chính bản thân từ đó trong câu.

Phân chia cấu trúc câu có thể chia làm 2 kiểu chia:
  • Từ trên xuống: theo cấp độ cấu trúc Câu rồi chia nhỏ theo Từ (ở đây sẽ chủ yếu sử dụng dạng này do các sách tham khảo tiếng Anh đều sử dụng).
  • Từ dưới lên[3]: theo cấp độ Từ, Ngữ rồi đến Câu.

Câu được chia làm 3 loại[4]:
  • Câu đơn: chỉ gồm một cấu trúc Chủ - Vị
  • Câu phức: gồm nhiều Chủ - Vị nhưng chỉ có một Chủ - Vị chính trong câu
  • Câu ghép: gồm nhiều Chủ - Vị và được nối với nhau, có quan hệ ngang nhau trong câu về mặt ngữ pháp, nghĩa là được nối chứ không bị lồng ghép nhau.

Ngữ có 5 chức năng trong câu[5]:
  • Chủ ngữ (Subject): thường là ngữ danh từ.
VD:     She smiles.
  • Động từ (Verb): là ngữ động từ, gồm động từ chia thuộc ngữ pháp (Auxiliary Verb) và động từ mang ý nghĩa chính (Lexical Verb)
VD:     She is singing a song.
            She sings a song.
  • Tân ngữ (Object): thường là các Danh từ, Đại từ, có 2 loại
    • Tân ngữ trực tiếp (Direct Object) nếu đối tượng chịu tác động trực tiếp bởi hành động của Chủ ngữ. Để nhận biết một câu có Tân ngữ trực tiếp không thì cần đặt câu hỏi What, Whom, nếu có câu trả lời thì câu đó có Tân ngữ trực tiếp.
    • Tân ngữ gián tiếp (Indirect Object), đối tượng nhận Tân ngữ trực tiếp. Dấu hiệu nhận biết, câu trả lời cho To whom, for whom[6].
VD:     Jim is waiting for a big surprise.
                              Jim gave his wife a yellow flower.
  • Bổ ngữ bắt buộc (Complement)[7]:
    • Bổ ngữ Chủ ngữ (Subject Complement): giống Tân ngữ nhưng là đứng sau các Linking verbs bổ nghĩa cho chính Chủ ngữ.
VD:     Jim has become a qualified engineer.
    • Bổ ngữ Tân ngữ (Object Complement): bổ nghĩa cho Tân ngữ chứ không phải Chủ ngữ.
VD:     I consider Jim a qualified engineer.
    • Bổ ngữ Động từ (Verb Complement): chính là các Tân ngữ trực tiếp và gián tiếp.
VD:     Jim gave his wife a yellow flower.
  • Bổ ngữ tự do (Adjunct): thường là các Ngữ Trạng từ, Giới từ hay Danh từ, mục đích thêm vào câu để nghĩa thêm phong phú, nhưng có thể bỏ đi mà nghĩa của câu không bị thay đổi.
VD:     Tom walked there very quickly.
            Sue walked to the farm after lunch.




Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu tỉnh lược.  



Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.
 

Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.

 Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.


Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.



Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu đơn.




Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu phức. 



Kiểu phân chia từ Trên xuống, với cấu trúc là Câu ghép.



Kiểu phân chia từ Dưới lên, với cấu trúc là Câu đơn. 




Tài liệu tham khảo

  1. Cao Xuân Hạo a 2006, Âm vị học và Tuyến tính – Suy nghĩ về các định đề của Âm vị học đương đại, lần 3, Tp. HCM, NXB Khoa học Xã hội
  2. Cao Xuân Hạo b 2006, Tiếng Việt, Sơ thảo ngữ pháp chức năng, lần 3, Tp. HCM, NXB Khoa học Xã hội
  3. Z.S.Harris, Những phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc, dịch: Cao Xuân Hạo, Tp. HCM, NXB Khoa học Xã hội
  4. Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật và Nguyễn Minh Thuyết 2007, Dẫn luận Ngôn ngữ học, lần 12, Hà Nội, NXB Giáo dục
  5. Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung 2006, Ngữ pháp Tiếng Việt, tập 1, lần 9, Hà Nội, NXB Giáo dục
  6. Diệp Quang Ban 2006, Ngữ pháp Tiếng Việt, tập 2, lần 9, Hà Nội, NXB Giáo dục

  1. Peter Roach 2009, English Phonetics and Phonology, lần 2, England, Cambridge University Press
  2. Howard Jackson 1982, Analyzing English, An Introduction to Descriptive Linguistics, 2nd, Pergamon Institute of English,

  1. Ebook C. L. Baker 1995, English Syntax, 2nd, The MIT Press http://books.google.com.vn/books?id=mb9hyi_kL9YC&pg=PA337&hl=vi&source=gbs_toc_r&cad=3#v=onepage&q&f=false


Website:


[1] Howard Jackson 1982, trang 7
[2] Bổ nghĩa khác cho Danh từ như Mạo từ, Chỉ định từ, Sở hữu cách…, Howard Jackson 1982, trang 10 và http://en.wikipedia.org/wiki/Determiner_(linguistics), truy cập 16/3/2012
[3] Nguyễn Thiện Giáp 2007, trang 259
[4] Diệp Quang ban 2006, trang 112
[5] Howard Jackson 1982, trang 29

Ngôn ngữ học, p3 - Hình thái học



Hình thái học (Morphography): là ngành khoa học nghiên cứu về kết cấu của từ[1]
  • Hình vị (Morpheme): là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa[2], còn gọi là từ tố. Gồm có 2 loại: chính tố và phụ tố. Chính tố quyết định ý nghĩa của từ, phụ tố chỉ mang tính ngữ pháp như số nhiều, tiếp đầu ngữ (prefix), tiếp vĩ ngữ (suffix).
VD:     Houses, có chính tố là {house} chỉ nghĩa chính là ngôi nhà và phụ tố là {es} chỉ số nhiều
Enviroment, có chính tố là {Enviro-} với nghĩa chính là môi trường và phụ tố là {-ment} cho biết đó là danh từ
  • Biến thể của hình vị (Morpheme Variance): do cùng một hình vị nhưng thể hiện ở nhiều dạng khác khác nhau.
VD:     Hình vị số nhiều {s} có 2 biến thể là {s} và {es}. Khi có biến thể thì chọn một hình vị phổ biến nhất là chuẩn, ví dụ ở đây là {s}
  • Từ (Word): do một hay nhiều hình vị kết hợp tạo thành và có ý nghĩa.
VD:     Từ do 1 hình vị (từ đơn tố): House, chỉ gồm {house}
Từ do 2 hình vị: Housework gồm {house} và {work}, Housewife: {house}, {wife}
                     Từ do 3 hình vị: Housewives gồm {house}, {wi-} và {ves}



[2] Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung 2006; Nguyễn Thiện Giáp 2007

Ngôn ngữ học, p2 - Âm vị học


Âm vị học (Phonology) là ngành khoa học nghiên cứu về sự khác nhau giữa cách phát âm của cùng âm vị hay của những âm vị khác nhau, ngữ điệu của từ và câu, qua các khái niệm âm vị (Phoneme), hình thang nguyên âm, tha âm vị (Allophone), ngữ điệu (Intonation), nhấn giọng (Stress), đọc lướt (Weak form).

Phân biệt nguyên âm: dựa vào hình thang nguyên âm và xác định theo 3 tiêu chí sau:
  • Theo vị trí của lưỡi. Có thể chia nguyên âm thành ba dòng: trước – giữa – sau.
  • Theo độ mở của miệng. Các nguyên âm được phân thành các nguyên âm có độ mở rộng – hẹp.
  • Theo hình dáng của đôi môi. Các nguyên âm được chia thành nguyên âm tròn môi – không tròn môi[1].

Phân biệt phụ âm: dựa vào phương thức cấu âm và vị trí cấu âm[2]
  • Phương thức cấu âm (Manner of Articulation[3]):
    • Âm tắc (Plosive, Affricate): phương thức tắc, không khí ra qua đường miệng
    • Âm mũi (Nasal): phương thức tắc nhưng không khí ra qua đường mũi
    • Âm xát (Fricative): âm thanh đi qua khe hẹp hay răng mà tạo thành. Có 2 loại: âm rít và không rít.
    • Âm bên (Lateral): âm nửa xát, xát không đáng kể so với loại trên
    • Âm rung (Approximant): không khí từ phổi ra bị chặn bởi đầu lưỡi hoặc chướng ngại và bị rung.
  • Vị trí cấu âm (Place of Articulation):
    • Âm môi (Bilabial, Labiodental): tạo bởi 2 môi hoặc môi với răng
    • Âm răng, âm lợi, âm sau lợi (Dental, Alveolar): đầu lưỡi đặt vào chân răng hoặc lợi của hàm răng trên
    • Âm quặt lưỡi (Post-Alveolar): đầu lưỡi nâng cao và quặt về phía sau
    • Âm ngạc (Palatal): mặt lưỡi trước tiếp xúc với ngạc cứng
    • Âm mạc (Velar): mặt lưỡi sau tiếp xúc với ngạc
    • Âm thanh hầu (Glottal): khe thanh hẹp, không khí qua và tạo chấn động



Tha âm vị (Allophone): là những âm vị giống nhau nhưng phát âm khác nhau do ở những vị trí khác nhau

Từ đồng âm (Homophone): là từ phát âm giống nhau nhưng nghĩa và viết khác nhau

Từ cùng chữ (Homograph): là từ viết giống nhau nhưng phát âm và nghĩa khác nhau

Nhấn giọng (Stress): được đề cập nhiều trong phát âm của tiếng Anh. Nhấn giọng quan trọng vì có thể nhấn giọng sai sẽ ra từ, nghĩa khác (cùng một từ nhưng động từ thường nhấn âm tiết sau nhưng danh từ thường nhấn âm tiết trước như contract /’kɒntrækt/ là danh từ và /kən’trækt/ là động từ). Những âm tiết nào được nhấn giọng sẽ được đặt một giống ‘ ở phía trước bên trên âm tiết đó. Thông thường:
  • 1 hay 2 âm tiết (Syllable) thì nhấn âm tiết đầu. VD: father /fɑ:ðə/, attract / ə’trækt/, lovely /lʌvlɪ/, even /’i:vn/,…
  • 3 âm tiết: nhấn âm tiết giữa. VD: apartment /ə’pɑ:tmənt/, relation /rɪ’leɪʃn/, potato /pə’teɪtəʊ/, mimosa /mɪ’məʊzə/…
  • Động từ: nhấn âm tiết cuối cùng. VD: receive /rɪ’si:v/, design /dɪ’zaɪn/, arrive /ə’raɪv/, assist / ə’sɪst/,…
  • Những âm tiết /-ə-/ thì không được ưu tiên nhấn giọng, những âm tiết mạnh và kéo dài sẽ được ưu tiên nhấn. VD: enter /’entə/, open /’əʊpən/, equal /’i:kwəl/, assist / ə’sɪst/, devine /dɪ’vaɪn/, money /’mʌnɪ/, product /’prɒdʌkt/, estate /ɪ’steɪt/, baloon /bə’lu:n/, entertain /entə’teɪn/, resurrect /rezə’rekt/, emperor /’emprə/, cinema /’sɪnəmə/… (Peter Roach 2009)

Đọc lướt (Weak form): Là phát âm rất nhẹ (lướt) những từ không quan trọng, thường là những mạo từ (article – a, an, the), liên từ (conjunction), giới từ (prepostion – as, at, to…), trợ động từ (auxiliary verb and To Be – is, are, has, have, must, can…). Khi phát âm lướt thì chỉ phát âm /-ə-/. Thường tất cả các từ đều có thể đọc bình thường (Strong form) và đọc lướt. Cần chú ý rằng phần lớn các âm tiết đọc lướt đều là /-ə-/ nhưng không phải luôn luôn (Peter Roach 2009, trang 76).

Cần phân biệt đọc lướt với thể rút gọn (Contracted form)[4]như it is – it’s, we have – we’ve…

Ngữ điệu (Intonation): là đề cập chủ yếu đến cao độ (Pitch Level) và thời gian ngắt (Stress Time) của câu. Ngữ điệu giúp biểu tả sắc thái của người nói. Thông qua ngữ điệu mà người nghe có thể suy luận ra ý nghĩa của câu người nói muốn gửi tới (có thể sai hay đúng tuỳ suy luận chủ quan, nhưng ở đây muốn nhấn mạnh đến việc suy luận của người nghe). Thông thường từ nào người nói muốn người nghe lưu ý thì người nói sẽ nhấn mạnh và kéo dài từ đó. Câu trần thuật có xu hướng thấp ở cuối câu. Câu hỏi lên giọng ở cuối câu.


[2] Nguyễn Thiện Giáp 2007, trang 166
[3] Peter Roach 2009, trang 62

Ngôn ngữ học, p1 - Ngữ âm học


Ngữ âm học (Phonetics) là một nhánh của ngôn ngữ học nghiên cứu về cách đọc, phát âm và phiên âm của các từ qua các khái niệm âm tố, âm vị và bảng hệ thống các âm vị, âm tiết.

  • Âm tố (Sound): khi phát âm, chuỗi âm thanh được chia thành các phân đoạn (segment)[1]. Ranh giới giữa các phân đoạn rất nhanh và không rõ nhưng được cho là không đáng kể. Đây chính là những âm tố. Vậy âm tố là cụ thể, là sự thể hiện của âm vị ở mỗi cá nhân khác nhau, trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Âm tố cũng chính là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, không thể chia nhỏ được nữa[2]. Âm tố được chia làm 2 loại: Nguyên âm và phụ âm.
  • Âm vị (Phoneme): Do sự phức tạp bởi phát âm giữa người nói khác nhau nên những âm tố được quy ước và hệ thống lại bằng các chữ cái Latin cho dễ nhận biết và được gọi là âm vị (phoneme). Vậy âm tố chính là sự thể hiện của âm vị và số lượng âm vị sẽ ít hơn âm tố. Âm vị giúp phân biệt ý nghĩa, giữa từ này và từ khác[3]. VD: hot /hɔt/[4], được chia làm 3 phân đoạn, gồm 3 âm vị /h/, /ɔ/, và /t/ và giúp phân biệt với dot /dɔt/ qua sự khác nhau giữa 2 âm vị /h/ và /d/.
  • Biến thể âm vị (Phoneme Variance): do sự khác nhau (giọng miền – dialect) nên cùng một âm vị có thể được phát âm khác nhau bởi những người khác nhau. Vậy những âm tố cùng thể hiện một âm vị chính là biến thể của âm vị (Nguyễn Thiện Giáp và ctg 2007). VD: development /-mənt/ được phát âm hổ biến là [-mənt] nhưng một số người Pháp nói tiếng Anh bị ảnh hưởng giọng mũi thì là [-mɑnt] [5].
  • Âm tiết (Syllable): chưa có định nghĩa cụ thể rõ ràng nhưng người ta có thể phân biệt được nó dễ dàng. Âm tiết gồm ít nhất là 1 nguyên âm, có thể kết hợp thêm với 1 hay nhiều phụ âm.
VD:     1 âm tiết: a /ə/, hot /hɔt/, chỉ có 1 nguyên âm
2 âm tiết: contacts /’kɒntækts/: do có 2 nguyên âm
  • Âm tiết phụ âm (Syllabic Consonant): là những âm tiết được tạo bởi phụ âm.
VD: bottle /’bɒtl/ âm tiết cuối cùng không có nguyên âm

Bảng hệ thống âm vị (Phonemic System):
  • Nguyên âm (Vowel): thanh do hơi thoát ra tự do tạo thành, hơi yếu, âm thanh phát ra cao độ gần như nhau để tạo thành âm sắc nhất định. Gồm 20 nguyên âm i:, ɪ, e, æ, ʌ, ɑ:, ɒ, ɔ:, ʊ, u:, ɜ:, ə, eɪ, ɑɪ, ɔɪ, ɑʊ, əʊ, ɪə, eə, ʊə
  • Phụ âm (Consonant): do sự cản trở không khí để gây nên tiếng động tạo thành, luồng hơi phải mạnh để bật ra và sau đó giảm, độ giảm tùy theo phụ âm[6]. Gồm 24 phụ âm (Peter Roach, 2009): p, b, t, d, k, g, f, v, θ, ð, s, z, ʃ, ʒ, h, tʃ, dʒ, m, n, ŋ, l, w, r, j
  • Việc phân chia trên tuy vẫn có nhiều tranh cãi (VD: /ai/ nên là [ai] hay [a] và [i]) nhưng cách [ai] được dùng phổ biến vì sự thuận tiện.


[1] Peter Roach 2009, trang 36; Cao xuân Hạo a 2006, trang 20 và Nguyễn Thiện Giáp 2007, trang 156
[3] Nguyễn Thiện Giáp 2007, trang 53
[4] Đối với phiên âm từ ra âm vị thì dùng gạch xiên, Cao Xuân Hạo 2006, trang 192 và Peter Roach 2009, trang 92
[5] Đối với phiên âm từ ra âm tố thì dùng móc vuông, Cao Xuân Hạo 2006, trang 192 và Peter Roach 2009, trang 92
[6] Nguyễn Thiện Giáp 2007, trang 156