domain, domain name, premium domain name for sales

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

Tìm hiểu về quỹ Hedge Fund (P2)

Quỹ đầu cơ sử dụng nhiều các chiến lược khác nhau, và mỗi người quản lý quỹ  sẽ tranh luận rằng họ là duy nhất và không thể so sánh được với bất kì nhà quản lý nào khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhóm các chiến lược lại thành các mục để hỗ trợ cho các nhà phân tích/nhà đầu tư trong việc xác định kĩ năng của một nhà quản lý và đánh giá xem làm như thế nào một chiến lược cụ thể có thể được thực hiện trong một điều kiện vĩ mô nhất định. Sau đây là một cách định nghĩa sơ lược và không bao gồm chiến lược của tất cả các quỹ đầu cơ, nhưng nó sẽ cung cấp cho người đọc về các chiến lược phức tạp theo chiều ngang.
 Tìm hiểu về quỹ Hedge Fund (P1)

Phụ lục 01: Các loại Hedge funds (phân loại theo chiến lược đầu tư)
phuluc.gif

·        Event driven (3,86%).
·        Global (12,48%).
·        Global macro (11,4%).
·        Market neutral (25,43%).
·        Short sellers (0,86%).
·        US oppotunistics (12,41%).
·        Long only leveraged (0,97%).
·        Market timing (1,75%).
·        Equity non – hedge (4,29%).
·        Foreign exchange (4,29%).
·        Sector (0,32%).
  • Funds of funds (7,58%).
  • Không thuộc loại nào trong các chiến lược đầu tư trên (11,98%).

Chiến lược phòng vệ tài sản
Chiến lược phòng vệ tài sản thường được biết như là mua/bán khống cổ phiếu, và chắc nó có lẽ là một chiến lược dể hiểu nhất, có vài chiến lược liên quan mà không được liệt kê trong danh mục dưới đây.
-         Long/Short – Người quản lý có ý định dung hòa các rủi ro trên thị trường thông qua việc nắm giữ cả hai vị thế long và short của nhiều loại chứng khoán.Trong chiến lược này, người quản lý quỹ có thể tham gia mua cổ phiếu mà họ nghĩ nó được định dưới giá, và bán cổ phiếu khi chúng được định giá cao. Trong hầu hết các trường hợp, các quỹ sẽ thu được chênh lệch khả quan trên thị trường cổ phiếu – ví dụ, có khoảng 70% giá trị quỹ là đầu tư mua vào cổ phiếu và 30% là đầu tư ngắn hạn vào cổ phiếu. Trong ví dụ này chênh lệch ròng ở thị trường cổ phiếu là 40%(70%-30%) và quỹ không dùng một chút đòn bẩy nào cả (tổng chênh lệch gộp là 100%). Tuy nhiên, nếu nhà quản lý tăng vị thế mua trong thị trường cổ phiếu tới 80%, trong khi vẫn quy trì 30% vị thế bán, tổng chênh lệch gộp của quỹ là 110% (80%+30%), được biết như là dùng đòn bẩy 10%.
-         Market Neutral – trong chiến lược này, người quản lý áp dụng các  nội dung cơ bản được đưa ra trong phần trước, nhưng tìm kiếm một sự tối thiểu hóa chênh lệch lợi suất ở thị trường nước ngoài. Điều này có thể được làm bằng hai cách. Nếu có một cự ngang bằng trong khoản đầu tư cho hai vị thế ngắn hạn và dài hạn, thì chênh lệch ròng của quỹ sẽ bằng 0. Ví dụ, nếu 50% đầu tư vào vị thế dài hạn và 50% đầu tư vào vị thế ngắn hạn thì chênh lệch ròng của quỹ bằng 0 và chênh lệch gộp của quỹ bằng 100%.
Có hai cách để đạt được market neutral và điều đó có nghĩa là chênh lệch beta bằng 0. Trong trường hợp này, người quản lý quỹ sẽ tìm một khỏan đầu tư cho cả hai vị thế ngắn hạn và dài hạn do dó tính toán beta của toàn quỹ sao cho ở mức nhấp nhất có thể. Trong chiến lược market neutral, mục đích của người quản lý quỹ là có thể loại bỏ bất kì một biến động nào của thị trường và chỉ dựa vào khả năng của mình để lựa chọn cổ phiếu.
Cả hai chiến lược long/short có thể được sử dụng trong một khu vực, ngành hoặc khu vực công nghiệp, hoặc có thể được áp dụng cho các cổ phiếu vốn hóa cụ thể…Trong thế giới của các quỹ đầu cơ, ở đó mọi người cố gắng tìm sự khác biệt của họ, bạn sẽ phát hiện ra rằng chiến lược cá nhân có sắc thái độc đáo của nó, nhưng tất cả chúng đều dùng cùng một nền tẳng cơ bản tương tự được miêu ta ở đây.
 Global Macro
Người quản lý đầu tư vào các khu vực mà họ cho rằng ở đó có nhiều cơ hội để thu được lợi nhuận. Nói chung, đây là những chiến lược mà có rủi ro/TSSL cao nhất trong tất cả các chiên lược của quỹ đầu cơ. Những quỹ Global Macro đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hàng hóa, quyền chọn, hợp đồng kì hạn, hợp đồng tương lai và các loại công cụ khác. Chúng có xu hướng đặt cược vào một xu hướng tăng giá của tài sản và chúng thường được dùng đòn bẩy cao. Hầu hết các quỹ này có một chiên lược đa dạng hóa toàn cầu, bởi vì với chiến lược đa dạng hóa các khoản đầu tư và quy mô thị trường có thể giúp họ phát triển được khá nhanh trước khi bị thách thức bởi vấn đề về năng lực. Nhiều quỹ đầu cơ tăng trưởng nóng nhất là Global Macro, bao gồm quỹ Long-Term Capital Management Amaranth Advisors. Cả hai đều là những quỹ khá lớn và có tỷ lệ đòn bẩy cao.
Relative value arbitrage 
Người quản lý hướng tới việc tận dụng chênh lệch giá giữa các công cụ như cổ phiếu, trái phiếu, các hợp đồng lựa chọn (option), hợp đồng tương lai (future). Họ sử dụng các phân tích về khối lượng, về kỹ thuật để phát hiện ra các cơ hội đầu tư. Nội dung cơ bản là một người quản lý quỹ đầu cơ được mua một chứng khoán mà kì vọng sắp tới sẽ được đánh giá, trong khi đồng thời bán khống chứng khoán có liên quan mà kì vọng giá giảm. (hiểu môn na như kinh doanh chênh lệch kiểu bán khống). Chứng khoán liên quan có thể là cổ phiếu và trái phiếu của công ty đặc biệt nào đó; những chứng khoán này ở hai công ty tương tự trong cũng lĩnh vực (ví dụ, HSG và HPG vào tháng 5/2013); hoặc hai loại trái phiếu được phát hành bởi cùng một công ty với ngày đáo hạn và lãi suất coupons khác nhau.  Trong mỗi trường hơp, có một giá trị tương đương mà dễ dàng được tính toán từ những chứng khoán có liên quan đến nhau nhưng chỉ khác ở một vài đặc điểm của chúng.
Chúng ta hãy nhìn vào bảng sau làm một ví dụ:

Giá
Coupon
Kì hạn
Tỷ lệ sinh lời hiện tại
$1,000.00
6%
30 years
6%
$1,276.76
8%
30 years
6%
Coupons được trả sau tháng một lần
Kì hạn được giả định giống nhau

Giả định rằng một công ty có hai loại trái phiếu cơ bản: một trả 8% và cái kia trả 6%. Cả hai đều dựa vào tài sản công ty và cùng ngày đáo hạn. Vì trái phiếu 8% được trả lãi suất cao hơn, nó nên bán với một khoản lợi suất cao hơn trái phiếu 6%. Khi trái phiếu 6% được giao dịch với giá là 1000$, thì trái phiếu 8% nên được bán với giá là 1,276.76$, trong điều kiện các yếu tố khác ngang bằng. Tuy nhiên, khoản lợi suất cao hơn này thường không được định giá đúng tương ứng, do đó làm một cơ hội cho các quỹ đầu cơ tham gia vào một giao dịch để tận dụng chênh lệch tạm thời. Giả định rằng trái phiếu 8% chỉ được bán với giá là 1,100$ trong khi trái phiếu 6% bán với giá 1,000$. Để tận dụng lợi thế của sự khác biệt giá này, một người quản lý quỹ đầu cơ đã mua trái phiếu 8% và bán khống trái phiếu 6% để mà tận dụng sự khác biệt giá tạm thời này. Tôi tận dụng được một khoản chênh lệch lớn trong tỷ suất vượt chội này chỉ tại một thời điểm. Trong thực tế, sự chênh lệch từ những khoản đâu tư này là hẹp hơn, điều hành quỹ đầu cơ phải chấp nhận sử dụng mức đòn bẩy cao để mà làm cho mức lợi nhuận đáng kể.
Convertible Arbitrage
Đây cũng là một hình thức của Relative value arbitrage . Trong khi, một vài quỹ đơn giản là đầu tư vào trái phiếu chuyển đổi, thì cũng có quỹ đầu cơ dùng arbitrage chuyển đổi tạo vị thế trong cả hai trường hợp chuyển dổi trái phiếu và chuyển dổi cổ phiếu của một công ty cụ thể nào đó. Một trái phiếu chuyển đổi có thể được chuyển đổi thành một số cổ phần. Giả định rằng một trái phiếu chuyển đổi đang được bán với giá 1000$ và được chuyển đổi thành 20 cổ phiếu của một công ty cổ phần. Điều này ám chỉ giá thị trường của cổ phiếu là 150$. Tuy nhiên, trong một giao dịch arbitrage, một người quản lý quỹ đầu cơ sẽ mua trái phiếu chuyển đổi và bán khống cổ phiếu trong trường hợp dự đoán giá trái phiếu tăng, giá cổ phiếu giảm, hoặc cả hai.
Nhớ rằng có thêm hai biến khác góp phần vào xây dựng giá của một trái phiếu chuyển đổi hơn là giá của cổ phiếu cơ bản. Một là, trái phiếu chuyển đổi sẽ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của lãi suất, cũng giống như một vài trái phiếu khác. Hai là, giá của nó cũng chịu sự tác động của lựa chọn gắn liền để mà chuyển đổi từ trái phiếu thành cổ phiếu, và lựa chọn gắn liền này bị ảnh hưởng bởi những biến động. Do đó, mặc dù trái phiếu đang được bán với giá 1000$ và cổ phiếu đang được bán với giá 50$ (Trường hợp này là tương đương), người quản lý quỹ sẽ tham gia vào một giao dịch arbitrage chuyển đổi nếu họ cảm thấy răng: 1) các biến động hàm ý trong phần tùy chọn là quá thấp, hoặc 2) là một sự giảm trong lãi suất sẽ tăng giá của trái phiếu hơn là sự tăng giá của cổ phiếu.
Mặc dù ngay cả khi họ không chính xác và giá cả tương quan duy chuyển theo chiều hướng trái ngược bởi vì vị thế không chịu tác động của một thông tin cụ thể nào của công ty, ảnh hưởng của sự dịch chuyển là quá nhỏ.  Sau đó, một người quản lý arbitrage phải tham gia vào một số lượng lớn vị thế để mà cố gắng tạo ra nhiều khoản lời nhỏ cùng với mức độ rủi ro hấp dẫn cho nhà đầu tư.  Một lân nữa, như trong những chiến lược khác, nhà quản lý sẽ dùng đòn bẩy để phóng đại lợi nhuận.
Chiến lược đầu tư vào công ty sắp phá sản
Người quản lý đầu tư vào chứng khoán của các công ty đang trong giai đoạn tái cơ cấu hoặc bên bờ phá sản. Họ hy vọng mua các chứng khoán này với giá thấp và bán lại khi công ty đã được phục hồi.Những quỹ đầu cơ mà đầu tư vào những cổ phiếu của công ty sắp phá sản là rất độc đáo. Trong nhiều trường hơp, các quỹ đầu cơ này có thể tham gia cho vay hoặc tham giá tái cấu trúc và cử người của mình vào ban quản trị của công ty để mà giúp phục hồi lại công ty.
Đó không phải để nói rằng tất cả quỹ đầu cơ đều làm việc này, nhiều trong số họ mua chứng khoán trong kì vọng rằng chứng khoán sẽ tăng giá trị dựa trên các nguyên tắc cơ bản và chiến lược hiện tại của ban quản trị.
Trong cả hai trường hợp, chiến lược này bao gồm mua trái phiếu mà đã bị mất đi một lượng đáng kể giá trị vì sự bất ổn tài chính của công ty hoặc những sự kì vọng của nhà đầu tư rằng công ty đang trong trình trạng thảm khốc. Trong trường hợp khác, một công ty có thể thoát khỏi tình trạng phá sản và quỹ đầu cơ sẽ mua được trái phiếu với giá thấp nếu họ đánh giá tình hình công ty sẽ cải thiện đủ để làm trái phiếu tăng giá. Chiến lược này có thể rất rủi ro như là việc nhiều công ty không cải thiện được tình hình.
Ngoài ra còn rất nhiều chiến lược đầu tư khác mà tác giả không trình bày, và dùng biểu đồ để thể hiện sự phổ biến của từng chiến lược được sử dụng.
Kết luận

Quỹ đầu cơ có rất nhiều chiến lược, nhiều chiên lược không có ở đây. Mặc dù những chiến lược đã được miêu tả ở trên nhưng cũng ở trong những điều kiện rất đơn giản và trong thực tế có thể phức tạp hơn rất nhiều.  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét