DAVID HUME (1711 – 1776)
Ông là một nhà triết học nổi tiếng thế giới, người đã cho rằng sự hiểu biết chỉ có thể xuất phát từ kinh nghiệm. Những đóng góp cho kinh tế học bao gồm sự phân tích tác động của tiền lên nền kinh tế và nền thương mại giữa các quốc gia. Ông được xem như là nhân vật chuyển tiếp quan trọng giữa trường phái trọng thương và các nhà kinh tế cổ điển Anh, những người sẽ tiếp bước ông.
Hume sinh ra ở Edinburgh , Scotland vào năm 1711. Cha ông là một quý tộc nhưng mất khi ông còn nhỏ. Tuy sống với mẹ nhưng do cha ông để lại rất nhiều tiền nên ông vẫn được hưởng nền giáo dục tốt, chủ yếu qua gia sư. Sau đó ông đăng ký học ở đại học Edinburg , nghiên cứu về văn học cổ của Hy Lạp – La Mã. Tuy nhiên, sau đó ông quyết định thôi học, sang Pháp và trở thành một nhà triết học vĩ đại.
Không kiếm được một chỗ giảng dạy tại bất kỳ trường đại học nào tại Scotland nên ông chấp nhận làm gia sư cho Hầu tước Annandate vào năm 1745. Vài năm sau đó ông làm thư ký cho một đại tướng quân đội. Năm 1752, ông được thuê làm thủ thư tại Thư viện Advocate ở Edinburg , giúp ông tiếp cận nhiều với sách vở. Thành quả là những tác phẩm triết học phi thường cùng với pho Lịch sử nước Anh gồm 6 tập (1757-1762). Năm 1763, ông trở thành Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và sau đó 2 năm thì quay về Edinburg . Ông mất tại Edinburg vào năm 1776.
Những đóng góp của ông cho kinh tế học:
- Theo ông, lãi suất được quyết định bởi cung và cầu về tiết kiệm. Tiết kiệm nhiều hơn sẽ làm giảm lãi suất và cho phép thương nhân vay mượn nhiều hơn để mở rộng sản xuất, giúp kinh tế tăng trưởng. Tiết kiệm ít hơn sẽ có tác động ngược lại.
- Ông phân tích cơ chế luồng tiền như sau khi cung tiền của nền kinh tế tăng:
o Trong ngắn hạn do giá cả không thay đổi ngay nên khi có nhiều tiền, tiêu dùng tăng và các thương nhân sẽ mở rộng sản xuất, việc làm gia tăng nhiều hơn. Cho nên dù giá cả có tăng chút ít thì lạm phát này vẫn tốt[1] vì nó làm tăng lợi nhuận kinh doanh, kích thích tăng trưởng kinh tế.
o Tuy nhiên, trong dài hạn, đến một lúc nào đó thì tăng công việc dẫn đến tăng tiền công[2] và đến một lúc nào đó dù cầu vẫn tăng nhưng sản xuất không tăng để đáp ứng kịp dẫn đến giá cả tăng vọt. Sản xuất lúc này bắt đầu giảm xuống và kéo theo thất nghiệp gia tăng.
o Đối với thương mại quốc tế. Khi giá cả hàng hoá trong nước gia tăng, khiến cho hàng hoá nước ngoài trở nên rẻ hơn[3] thì quốc gia bị thâm hụt thương mại, khiến cho lượng tiền trong nước giảm xuống, chi tiêu sẽ ít hơn nên giá trong nước sẽ giảm. Mất cân đối thương mại vì thế sẽ không kéo dài. Nước thặng dư thương mại sẽ có cung tiền tăng và trải qua lạm phát, điều này có xu hướng làm giảm thặng dư thương mại của họ. Ngược lại, nước có thâm hụt thương mại sẽ có cung tiền và giá cả giảm, giúp làm giảm thâm hụt thương mại của họ. Và từ đó lượng vàng trong nước sẽ cân bằng, nhập khẩu bằng xuất khẩu.
- Ông cũng cho rằng thương mại có ích với cả các nước nghèo và nước giàu. Nước nghèo có thể tăng trưởng và phát triển, mức sống của họ sẽ theo kịp những nước láng giềng và đối tác thương mại giàu có hơn là do có sự chuyển giao công nghệ từ những nền kinh tế phát triển sang nền kinh tế kém phát triển hơn.[4] Còn bản thân các nước giàu có lợi là nhờ xuất khẩu bán hàng hoá ở những nước nghèo đó. Với lập luận đó, ông ủng hộ tự do thương mại và phản đối hạn chế trao đổi giữa các quốc gia theo kiểu trường phái trọng thương.
[1] Điều này hiện nay cũng được nhiều nhà kinh tế học đồng ý và cả số liệu thống kê cũng cho thấy rõ điều đó. Khi lạm phát thấp thì kích thích tăng trưởng kinh tế, nhưng nếu tăng quá cao, trên 2 con số thì kinh tế sẽ đi xuống.
[2] Thời này đầu vào chỉ được nhấn mạnh yếu tố lao động. Ngay cả lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo sau đó vài thập kỷ cũng chỉ nói về yếu tố lao động đầu vào.
[3] Do chi phí đầu vào của hàng hoá nước ngoài rẻ hơn
[4] Lý luận này đến nay vẫn được sử dụng, tuy nhiên vẫn còn nhiều tranh cãi với lập luận tương tự của Gunnar Myrdal. Xem thêm trong Kinh tế học quốc tế, Lý thuyết ngoại thương.
--- CÒN TIẾP ---