Trước tiên nói về tinh thần:
Phải có hào khí: nghĩa là có quyết tâm tập cho đến nơi và đều đặn, kiên nhẫn vững vàng, tin tưởng, không nghe lời bàn ra tán vào mà chán nản bỏ đi. Phải lạc quan: không lo sợ vì bệnh mà mọi người cho là bệnh hiểm nghèo và tươi tỉnh tin rằng mình sẽ thắng bệnh do luyện tập
Tư thế
“Trên không dưới có, lên ba, xuống bảy”
Trên phải không, dưới nên có đầu nên lơ lửng, miệng không hoạt động, bụng phải mềm lưng nên thẳng, thắt lưng mềm dẻo, cánh tay, vẫy, cùi trỏ thẳng và mềm, cổ tay trầm, bàn tay quay lại phía sau, ngón xòe như cái quạt. Khi vẫy lỗ đít phải thót, gót chân lỏng, hậu môn phải chắc, bàn chân phải cứng, các ngón chân bám chặt như đứng trên đất trơn. Đây là quy những quy định cụ thể của các yếu lĩnh khi luyện “vẫy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh”
Dựa trên yêu cầu này, khi tập vẫy tay thì từ cơ hoành trở lên, giữ cho được trống không, buông lỏng thảnh thơi, đầu không nghĩ ngợi lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ lung tung, chỉ chú ý vào việc tập, xương cổ cần buông lỏng để cho có cảm giác như đầu treo lơ lửng, mồm giữ tự nhiên (không mím môi), ngực nên buông lỏng để cho phổi thở tự nhiên, cánh tay buông tự nhiên giống như hai mái chèo gần vào vai. Từ cơ hoành trở xuống phải giữ cho chắc, đủ sức căng, bụng dưới thóp vào, hậu môn nhích lên, mười ngón chân bán chặt vào đất, giữ cho đùi và bắp chân trong trạng thái căng thẳng, xương mông thẳng như cây gỗ.
Khi vẫy tay cần nhớ “lên không, xuống có” nghĩa là lấy sức vẫy tay về phía sau khi tay trở lại phía trước là do quán tính không dùng sức đưa ra phía trước. Lúc tập khi ngoắc hai tay sau lưng, hậu môn nhíu lại cảm giác như có cái gì nhột nhột bò lên từ dưới thận theo xương sống lên lưng, vai. Hai trái thận như được xoa bóp, massage cảm giác rất khoan khoái êm nhẹ dễ chịu. Khi tập có quyết tâm nhưng phải từ từ tiến lên mới là đúng cách, sẽ thu được kết quả mỹ mãn. Nếu tinh thần không tập trung, tư tưởng phân tán thì khí huyết loạn xạ và không chú ý đến “trên nhẹ dưới nặng” là sai và hỏng. Khi vẫy tay tới 600 cái trở lên, thông thường có trung tiện (đánh rắm), hắt hơi, hai chân nhức mỏi, toát mồ hôi, mặt nóng bừng, đây là hiện tượng bình thường, có phản ứng là tốt là đã có hiệu quả, đừng ngại. Trung tiện và hoắt hơi là do nhu động của đường ruột tăng lên, đẩy mạnh cơ năng tiêu hóa. Chân mỏi là do khí huyết dồn xuống cho hợp với “trên nhẹ, dưới nặng”. Đây là quy luật của sinh lý hợp với vũ trụ “thiên khinh địa trọng”.
Bệnh gan do khí huyết, tạng gan không tốt gây nên khí không thoát, tích lũy làm cho khó bài tiết. Đương nhiên là bệnh nan y ảnh hưởng tới cả mật và tỳ vị. Luyện “vẫy tay Dịch Cân Kinh” có thể giải quyết vấn đề này. Nếu sớm có trung tiện (đánh rắm) là có kết quả sớm.
Bệnh mắt: luyện “vẫy tay Dịch Cân Kinh” có thể khỏi đau mắt đỏ, cận thị, thậm chí chữa cả bệnh đục thủy tinh thể (thông manh).
Trong nội kinh có nói “mắt nhờ huyết mà nhìn được” khi khí huyết không dẫn đến độ phận của mắt thì đương nhiên sinh ra các bệnh của mắt. Con mắt là trong hệ thống của thị giác nhưng cũng là bộ phận của cơ thể.
Một số điểm cần chú ý:
1. Số lần vẫy tay: không nên ít từ 600 lên dần tới 1800 (30 phút) mới là toại nguyện cho việc điều trị. Bệnh nhân nặng có thể ngồi mà vẫy tay, tuy là ngồi nhưng phải nhờ thóp đít và bấm 10 đầu ngón chân.
2. Số buổi tập
- Buổi sáng thanh tâm tập mạnh. Buổi chiều trước khi ăn tập vừa. Buổi tối trước khi ngủ tập nhẹ.
3. Có thể tập nhiều nhất là bao nhiêu?
Ngưỡng cửa của sự chuyển biến bệnh là 1800 lần vẫy tay, có bệnh nhân vẫy tới 3000 đến 6000. Nếu sau khi tập thấy ăn ngon, ngủ tốt, đại tiểu tiện điều hòa, tinh thần tỉnh táo thì chứng tỏ con số ta tập là thích hợp.
4. Tốc độ vẫy tay:
Theo nguyên tắc thì nên chậm chứ không nên nhanh, bình thường vẫy chậm thì 1800 cái hết 30 phút. Vẫy tay tới lúc nửa chừng thường nhanh hơn lúc ban đầu một chút, đây là động lực của khí. Khi mới vẫy tay rộng vòng và chậm một chút. Khi đã nhuần thì hẹp vòng, người bệnh nhẹ thì nên vẫy nhanh và dùng sức nhiều, người bệnh nặng thì nên vẫy chậm và hẹp vòng. Vẫy tay nhanh quá làm cho nhịp tim đập nhanh mà vẫy chậm quá thì không đạt tới mục đích luyện tập là cần cho mạch máu lưu thông.
5. Vẫy tay nên dùng sức nhiều hay ít, nặng hay nhẹ?
Vẫy tay là môn thể dục chữa bệnh, chứ không phải là môn thể thao đặc biệt. Đây là môn thể dục mềm dẻo đặc biệt dùng ý mà không dùng sức nhưng nếu vẫy tay nhẹ quá cũng không tốt bởi vì bắp vai không được lắc mạnh thì lưng và ngực cũng không được chuyển động được nhiều, tác dụng sẽ giảm.
Vẫy tay không phải chỉ chuyển động cánh tay mà phần chính là chuyển động bắp vai. Bệnh phong thấp thì nên dùng mức “nặng” một chút, bệnh huyết áp cao thì nên vẫy tay chậm và nhẹ.
Nói tóm lại: phần lớn phải tự mình nắm vững tình trạng phân tích những triệu chứng. Sau khi tập nghe sự nhận xét của mọi người xung quanh thấy sự chuyển biến nhanh nhẹn hơn, tươi tỉnh hơn hay là kém khi trước tập rồi tự mình suy nghĩ và quyết định cách tập, rồi luôn luôn tổng kết trên nguyên tắc là tập thế nào cho người thoải mái và dễ chịu hơn là đúng, là tốt nhất.
Đông y cho rằng động tác nhẹ là bổ ích cho cơ thể, động tác mạnh (nặng) là bỏ (loại bỏ các chất cặn bã có hại cho người tức là bệnh tật).
6. Mức độ vỗ tay:
Chỉ vẫy tay về phía sau dùng sức (7 phần) không vẫy tay về phía trước mà do phản xạ của cánh tay cho là 3 phần.
7. Có cần đếm không?
Đếm không phải chỉ để nhớ mà còn có tác dụng làm cho bộ óc được bình thản, tim được trầm tĩnh, chính khí được bồi dưỡng, có tác dụng làm cho bộ não được nghỉ ngơi và thăng bằng, không nghĩ ngợi lung tung.
8. Nơi tập
Không có gì đặc biệt về chỗ tập, tập ở đâu cũng được, trong nhà, ngoài trời. Dĩ nhiên nơi nào có dưỡng khí trong sạch và yên tĩnh vẫn tốt hơn. Tránh nơi có gió lùa mùa hè hay mùa đông đều tránh đứng đầu ngọn gió.
9. Trước và sau khi tập:
Trước khi tập nên đứng bình tĩnh cho tâm được thoải mái, yên tĩnh để chuyển hóa về sinh lý và tâm lý. Ta có thể làm những động tác nhẹ nhành, thoải mái như trong môn “khí công”.
Đến khi tập xong cũng nên bình tĩnh mà vê 10 đầu ngón chân, 10 đầu ngón tay. Những người không đủ bình tĩnh cần đặc biệt chú ý đến điều này
10. Tập “Dịch Cân Kinh” thế nào cho đúng.
Sau khi tập cảm thấy ngực và bụng nhẹ nhành dễ chịu, hơi thở điều hòa mắt sáng, nước miếng ứa ra, đại tiện nhuận, ăn ngon, tinh thần tỉnh táo, bệnh tật bớt dần thì đấy là tập đúng, rất ít khi tập sai, tỷ lệ tập sai không tới 1%. Sau khi tập đại đa số thấy đều có phản ứng nhưng về hiệu quả thì rất khác nhau nguyên nhân chính là tư thế khi tập có thích hợp với thể chất người tập hay không.
11. Lúc bắt đầu tập nên chú ý đến điểm nào?
Nửa thân trên buông lỏng: thượng – hư. Nửa thân dưới giữ chắc: hạ - thực. Tay ra phía trước; không dùng lực (nhẹ). Vẫy tay ra phía sau có dùng sức (nặng). Tập đếm số lần vẫy tay ngày một tăng, ngày ba buổi tập, kiên quyết “tự chữa bệnh cho mình”
12. Trạng thái tinh thần lúc tập:
Có liên quan gì đến hiệu quả không? Có ảnh hưởng rất lớn! Hết lòng tin tưởng. Kiên quyết tới cùng. Tập đủ số nhất định. Lòng còn nghi hoặc, còn bị động dư luận ngoài. Thấy phản ứng đã lo sợ, bỏ tập thì làm gì có kết quả.
Tóm lại có mấy điều cần lưu tâm:
a. Khi tập luôn bấm mấy ngón chân, thóp lỗ đít, để giữ tư thế “thượng hư – hạ thực”
b. Vẫy tay từ ít tới nhiều đạt tới 1800 cái trở lên mới có hiệu quả.
c. Có phản ứng đừng ngại mà ngừng tập, vì đó là diễn biến tốt, cứ tập số đếm như cũ qua phản ứng sẽ tăng số lần vẫy tay lên
d. Kiên trì quyết tâm luyện tập, tin tưởng “các bệnh tật sẽ khỏi”
e. Vững lập trường, không hoang mang vì dư luận, lạc quan với cuộc sống, chỉ cần niềm tin bằng hạt cải là có thể dời núi (nghĩa bóng là vững niềm tin mà tập luyện đến nơi đến chốn thì bệnh nguy nan như trái núi thì cũng rời phải khỏi người).
f. Có quyết tâm là thực hiện ngay, càng để chậm là ngần ngại càng khó khăn thêm, càng lâu khỏi bệnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét